Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012

NĂM ĐỨC TIN


Ý Nghĩa của biểu tượng (logo) Năm Đức Tin:

1. Con thuyền là biểu tượng của Giáo hội Công giáo hoàn vũ.
2. Cột buồm chính có biểu tượng là cây Thánh Giá với mảnh buồm căng gió có ghi hàng chữ IHS có nghĩa là Đức Chúa Kitô.
3. Cánh buồm hình tròn là biểu tượng cho Mình Thánh Chúa.



KINH NĂM ĐỨC TIN

Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu,/ chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con ơn đức tin,/ nhờ đó chúng con được nhận biết và thực hành những điều Chúa dạy, / hầu đem lại cho chúng con hạnh phúc đời này và đời sau.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa là đường, là sự thật và là sự sống./ Ai tin Chúa sẽ tìm thấy đường đi, tìm ra chân lý và tìm được sự sống./ Chúng con cảm tạ Chúa đã đến rao giảng Tin Mừng,/ dạy chúng con những điều phải tin, những việc phải làm, / để được sống và sống dồi dào./
Xin nâng đỡ đức tin yếu kém của chúng con,/ để chúng con luôn biết tín thác vào tình thương của Chúa, / sẵn sàng dấn thân loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo, theo lệnh Chúa truyền.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng hướng dẫn mọi loài,/ xin khơi lại cho chúng con những điều chúng con phải tin,/ những việc phải làm / để đức tin của chúng con mỗi ngày thêm sâu sắc và trưởng thành hơn./ Xin ban cho chúng con biết can đảm tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người,/ biết ý thức cử hành đức tin trong các nghi lễ phụng vụ,/ thực hành đức tin trong cuộc sống hằng ngày, / để có thể thông truyền đức tin đó lại cho con cháu,/ và tất cả mọi người, đặc biệt là những người chưa nhận biết Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ được chúc phúc vì đã tin./ Xin giúp chúng con luôn tin những lời Chúa dạy và Hội Thánh truyền,/ biết phó thác mọi sự cho tình yêu quan phòng của Chúa,/ biết quan tâm đến nhu cầu của mọi người anh chị em chung quanh chúng con,/ nhờ đó họ sẽ được nhận biết Chúa,/ để chính họ cũng nhận được ơn đức tin đem lại sự sống đời đời.
Lạy Thánh Cả Giuse, các Thánh Tử đạo Việt Nam cùng toàn thể các Thánh,/ các ngài là những những gương mẫu sống động về đức tin cho chúng con./ Xin giúp chúng con biết sống / và thực hành đức tin của chúng con trong cuộc sống hằng ngày,/ nhất là trong Năm Đức Tin này.
Chúc tụng Thiên Chúa vinh hiển muôn đời. / Amen!


.................................................................................................................................
Mười Cách Để Sống Năm Đức Tin

Để làm nổi bật kỷ niệm 50 năm Công đồng Vatican II và 20 năm phát hành Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, Đức Bênêđictô XVI đã công bố Năm Đức Tin, bắt đầu vào ngày 11 tháng 10 và kết thúc vào ngày 24 tháng 11 năm 2013. Năm Đức Tin nhằm củng cố đức tin cho người Công giáo và qua gương mẫu của họ đưa thế giới đến với đức tin.
Đức Cha David Ricken của Giáo phận Green Bay, chủ tịch Uỷ ban Truyền giáo và Giáo lý trực thuộc Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, đề nghị “10 cách để sống Năm Đức Tin”. Các đề nghị này được lấy từ những hướng dẫn của Bộ Giáo lý Đức tin, vài đề nghị trong số này đã là những đòi hỏi dành cho người Công giáo; những điểm khác có thể được người công giáo thực hiện vào mọi lúc và đặc biệt trong Năm Đức Tin:
 1. Tham dự Thánh Lễ. Năm Đức Tin có ý thăng tiến việc mỗi người gặp gỡ Chúa Giêsu. Điều này xảy ra hầu như ngay lập tức nơi Bí tích Thánh Thể. Tham dự Thánh Lễ thường xuyên làm đức tin tăng trưởng qua Kinh Thánh, Kinh Tin Kính, các lời nguyện, Thánh nhạc, bài giảng, việc rước lễ và thông phần với cộng đoàn đức tin.
2. Đi xưng tội. Giống như đi dự lễ, người Công giáo tìm thấy sức mạnh và đào sâu đức tin của mình qua việc tham dự Bí tích Sám Hối và Hoà Giải. Việc xưng tội thúc đẩy con người quay về với Thiên Chúa, diễn tả lòng đau xót vì đã sa ngã và mở đời sống mình cho quyền năng chữa lành của Thiên Chúa. Việc xưng tội tha thứ những tổn thương của quá khứ và ban sức mạnh cho tương lai.
3. Học hỏi đời sống của các thánh. Các thánh là những gương mẫu vượt thời gian về cách sống đời Kitô hữu, và các ngài giúp cho niềm hy vọng được tiếp diễn không ngừng. Các ngài không chỉ là những tội nhân đã liên tục cố gắng gần gũi với Thiên Chúa, mà còn là ví dụ điển hình những cách thức mà một người có thể phụng sự Thiên Chúa: qua việc giảng dạy, truyền giáo, bác ái, cầu nguyện và đơn sơ cố gắng làm đẹp lòng Thiên Chúa trong các hoạt động và quyết định bình thường của đời sống hằng ngày.
4. Đọc Kinh Thánh mỗi ngày. Kinh Thánh cung cấp con đường trực tiếp đến với Lời Thiên Chúa và kể về lịch sử ơn cứu độ con người. Người Công giáo có thể cầu nguyện bằng Kinh Thánh (bằng phương pháp lectio divina hoặc các phương pháp khác) để trở nên hòa hợp hơn với Lời Thiên Chúa. Nói cách khác, Kinh Thánh là một điều đòi buộc để trưởng thành trong Năm Đức Tin.
5. Đọc các văn kiện của Công đồng Vatican II. Công đồng Vatican II (1962-65) mở ra một cuộc canh tân vĩ đại cho Giáo Hội. Công đồng định hình cách cử hành Thánh Lễ, vai trò của giáo dân, cách Giáo Hội hiểu về chính mình, tương quan của mình với những Kitô hữu khác và những người không phải Kitô hữu. Để tiếp tục cuộc canh tân này, người công giáo phải hiểu những điều Công đồng dạy và cách thức làm cho đời tín hữu nên phong phú.
 6. Học Giáo lý. Được xuất bản đúng 30 năm sau khi Công đồng khai mạc, Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo bao trùm những điều phải tin, các giáo huấn luân lý, việc cầu nguyện và các bí tích của Hội Thánh Công Giáo trong một quyển duy nhất. Đó là nguồn giúp gia tăng sự hiểu biết đức tin. Một nguồn hữu ích khác là Sách Giáo lý Công giáo của Hoa Kỳ dành cho người trưởng thành (USCCA).
7. Tham gia các sinh hoạt của giáo xứ. Năm Đức Tin không thể chỉ có việc học hỏi và suy niệm. Sự hiểu biết vững chắc về Kinh Thánh, Công đồng và Giáo lý phải chuyển thành hành động. Giáo xứ là một nơi tuyệt vời để bắt đầu, và ơn riêng của mỗi người giúp xây dựng cộng đoàn. Mọi người được mời gọi tham gia các việc như tiếp tân, ca hát trong phụng vụ, đọc sách, giáo lý viên, và các vai trò khác trong đời sống giáo xứ.
8. Giúp những người khốn khó. Toà Thánh khích lệ người Công giáo đóng góp cho việc bác ái và tình nguyện giúp đỡ người nghèo trong Năm Đức Tin. Điều này có ý làm cho mỗi cá nhân gặp được Chúa Kitô nơi người nghèo, người sống bên lề xã hội và những người dễ bị tổn thương. Giúp đỡ người khác khiến cho người Công giáo diện đối diện với Chúa Kitô và tạo nên một gương mẫu cho những người khác trong thế gian này.
9. Mời một người bạn đến dự Thánh Lễ. Năm Đức Tin có tính toàn cầu, tập trung vào việc canh tân đức tin và việc truyền giáo của toàn thể Hội Thánh, tuy nhiên sự thay đổi thật sự xảy ra ở bình diện địa phương. Một lời mời cá nhân có thể làm thay đổi hoàn toàn một người nào đó đang xa rời đức tin hoặc cảm thấy xa lạ với Hội Thánh. Ai cũng quen biết những người như thế, do đó ai cũng có thể gởi đi một lời mời gọi yêu thương.
10. Làm cho các mối phúc thấu nhập vào đời sống hằng ngày. Các mối phúc (Matthêu 5,3-12) vạch nên một kế hoạch chi tiết phong phú cho việc sống đời Kitô hữu. Các mối phúc chứa đựng sự khôn ngoan giúp cho mọi người khiêm tốn hơn, kiên nhẫn hơn, công bằng hơn, trong sáng hơn, yêu thương hơn, tha thứ nhiều hơn và tự do hơn. Đó chính là mẫu đức tin sống động, cần có để lôi kéo người ta đến với Hội Thánh trong năm sắp tới.


 Biên dịch: Lm. Phêrô Lê Tấn Bảo
.................................................................................................................. 


Sinh viên với Năm Đức Tin trước những thách đố của thời đại


Đức Tin là một hồng ân. Một hồng ân thiêng liêng, vô giá mà Thiên Chúa dành tặng cho con người. Nhưng để Đức Tin được triển nở và vững mạnh cần có sự đáp trả của con người, nghĩa là về phía con người đi tìm chân lý, còn về phía Thiên Chúa đã, đang và luôn ban ánh sáng đặc biệt để dẫn dắt con người. Ánh sáng soi đường đó chính là Đức Giêsu Kitô.

 Tuy nhiên, với cuộc sống đôi lúc khiến chúng ta xác tín các thực tại đang đối diện hay những chủ nghĩa duy lý làm cho Đức Tin bị “méo mó” đi. Bởi thế, khi mà cả thế giới đang trong thời kỳ “toàn cầu hóa”, thì hơn bao giờ hết, Đức Tin đóng tầm quan trọng, là điều căn cốt trong cuộc sống con người, cách riêng là những người trẻ - những sinh viên với cuộc sống xa nhà. Liệu rằng, trước những thách đố của thời đại, thế hệ trẻ có giữ được lửa cho ngọn đuốc Đức Tin luôn cháy sáng để soi dẫn chúng ta tiến bước trên con đường tìm về, gắn kết với Thiên Chúa và để Ngài sống trong ta?

Trải dài với thời gian, Đức Tin vẫn là một hồng ân mà Thiên Chúa tuôn đổ vào mỗi người để chúng ta sống một cuộc sống đích thực giữa trần thế. Nhưng trong bối cảnh xã hội bây giờ, dưới góc cạnh của một sinh viên, thử hỏi mỗi chúng ta có còn giữ cho mình một Đức Tin bền vững và tinh tuyền như ngày ban đầu mà Thiên Chúa trao ban? Thực sự sẽ khó, rất khó khi mà xã hội và con người ngày nay đang cố chối bỏ những ý Thiên Chúa muốn ra khỏi cuộc sống, khỏi suy nghĩ và khỏi trái đất này. Sẽ là thách đố lớn với những đôi chân còn non trẻ, những con người mới hòa mình vào xã hội, giữa một đô thị phồn vinh, quanh những trò tiêu khiển hấp dẫn, và đầy những xu hướng đam mê, hưởng thụ mời mọc.

Với những suy tư đó, cách riêng là trong Năm Đức Tin này, chúng ta cùng nhìn lại một số yếu tố gây “cản trở” và làm “lu mờ” đi Đức Tin của mỗi người sinh viên.

Sự thay đổi môi trường sống

Phần lớn sinh viên xuất thân từ những miền quê, nơi có những ngôi làng nhỏ, có gia đình, người thân và bạn bè từ lúc mới lớn... Trái lại, những trường đại học, cao đẳng, trung cấp... thường chỉ có ở những thành phố và thủ đô lớn. Khi mang trên mình tên gọi sinh viên thì đồng nghĩa với việc ta đi đến một môi trường mới, xa gia đình, làng xóm với một cuộc sống hoàn toàn tự lập.

Dưới chiều kích Đức Tin, sự thay đổi môi trường ảnh hưởng rất lớn đến niềm tin Kitô giáo của mỗi sinh viên. Từ chỗ xung quanh là những người có đạo, gần nhà thờ, bên người thân, chúng ta được hướng dẫn, thúc đẩy về đời sống thiêng liêng thì nay bước vào môi trường “đa chiều”, phải sống giữa những bạn bè không cùng tôn giáo, nơi trường học, trong xóm trọ, và xa cách bóng dáng của những ngôi thánh đường.

Những điều đó ắt hẳn sẽ phần nào ảnh hưởng tới cuộc sống tâm linh của mỗi sinh viên. Sâu xa hơn, ngày xưa những lời kinh sáng tối vang lên nơi gia đình, trong nhà thờ, nay thì sao? Tiếng kinh, lời nguyện thưa dần trong đêm vắng? Những thánh lễ sáng, giờ Chầu Thánh Thể ban tối hằng ngày nay còn tham dự thường xuyên? Hay chỉ với một thánh lễ Chúa nhật là đủ, xem như “hoàn thành nhiệm vụ”. Hơn thế nữa, môi trường mới dễ làm ta xa Chúa và bị “hòa tan” trong cả tư tưởng, lối sống khi ngày lại ngày ta tiếp xúc với những người xung quanh nơi xóm trọ, giảng đường, trên con phố... Sẽ là khó để giữ được một Đức Tin tinh ròng như những ngày bên cha, bên mẹ, bên những người anh em, nơi giáo họ, giáo xứ...

Hòa nhập xã hội

Thay đổi môi trường sống đi liền với việc hòa nhập xã hội. Nhưng mỗi sinh viên đang hòa nhập hay là hòa tan mình vào cái thời kì kinh tế thị trường này? Có thể nói, lối sống của thời toàn cầu hoá là lối sông mở. Quan niệm về luân lý cũng biến đổi nhiều so với sự đổi thay của môi trường sống là nơi diễn ra những khác biệt về kinh tế xã hội, chủng tộc, văn hóa giới tính... Tạo nên những thách đố khác nhau gây ảnh hưởng trực tiếp đến Đức Tin của chúng ta. Một Giám mục Á châu có lý khi ví “toàn cầu hoá như một luồng gió mát lạnh đem đến nhiều lợi ích và thỏa mái, mà chúng ta cần mở rộng cửa để đón nhận. Mặc dù, đôi khi nó cũng mang chướng khí, bão tố và một vài con muỗi”!

Những sự thay đổi đó đánh dấu sự phát triển của xã hội và con người. Nhưng chúng ta có thể thấy, điều căn bản nhất mà dường như xã hội đang lãng quên và đánh mất đó là đạo đức và nhân bản của con người. Không những đánh mất mà còn xuất hiên thêm những yếu tố đối lập với những giá trị nền tảng đó. Sinh viên là những người trẻ, sự thích nghi với cuộc sống rất nhanh, nhưng phần lớn lại không làm chủ được mình, bị cuốn vào vòng xoáy của xã hội, dẫn đến họ cũng đã và đang xem thường những giá trị cốt lõi đó. Yêu thử, sống thử... tỷ lệ phá thai ở tuổi trẻ ngày càng cao và còn chưa dừng lại ở đó. Rồi những trò chơi vô bổ như game, hút chích, nghiện ngập, mại dâm, lô đề, cờ bạc, cá độ dưới mọi hình thức...

Đây là một yếu tố cơ bản đã khiến nhiều sinh viên không những bỏ đạo, bỏ nhà thờ mà còn đánh mất cả đạo đức, sự nghiệp, ảnh hưởng đến gia đình về cả kinh tế lẫn tinh thần, và có khi còn đánh mất cả mạng sống mình trong giây lát. Ngoài ra, sinh viên còn dùng cách suy nghĩ “lợi lộc” để bào chữa cho việc chạy đua với thế gian của mình.

Những lối rẽ hấp dẫn như thế đã đưa nhiều sinh viên đi vào bóng đêm của tội lỗi, đi đến ngõ cụt của cuộc sống, đánh mất Đức Tin, bán rẻ lương tâm và chính bản thân mình. Vì vậy làm sao để mỗi chúng ta giữ gìn và cũng cố được Đức Tin mà Chúa đã ban?

Những “căn bệnh chủ nghĩa” của thời đại

Không dừng lại ở đó, nhìn vào lối sống ngày nay, chúng ta thấy rõ những “căn bệnh chủ nghĩa” đang phát triển và ngày càng lan rộng trong mỗi con người. Lo lắng hơn, “căn bệnh chủ nghĩa” cũng đang dần ăn sâu vào những người trẻ, để rồi xem thường những giá trị của con người, lương tâm con người bị bán rẻ, đạo đức được đưa ra cân đo đong đếm bằng đồng tiền, điểm chác và bằng cấp đánh đổi bằng tiền bạc... Quyền lực, danh vọng, đồng tiền đã trở nên những ông chủ đích thực quyết định sự “công bằng” cho luân lý và đạo đức.

Cách riêng những “căn bệnh chủ nghĩa” khiến sinh viên ngày nay trở nên ích kỷ, thờ ơ, vô cảm với đồng loại, chai lì tình thương với anh em mình, mờ mắt trước nỗi đau của tha nhân, câm lặng trước bạo lực, bất công... và điều nguy hiểm hơn là vô cảm trước tội lỗi.

Hơn thế, mọi giá trị trên đời đang bị xem thường khi chủ nghĩa tương đối đang ăn sâu vào lối nghĩ, cách nhìn của mỗi người. Không có một thước đo chuẩn mực nào cho cuộc sống, không có một điểm quy chiếu nào cho suy nghĩ và hành động. Những yếu tố đó cũng đã thâm nhập vào tâm trí sinh viên Công giáo trong lối sống, gặm nhấm những suy nghĩ tích cực dẫn đến niềm tin bị phai nhạt, Đức Tin bị lu mờ. Vậy đâu là điểm quy chiếu để mỗi người trẻ, mỗi sinh viên chúng ta sống xứng đáng với tư cách là con Thiên Chúa? Và để trở nên những người Công giáo tốt, sống Đức Tin và là chứng nhân đích thực của Đức Tin Kitô giáo trong xã hội hôm nay?

Thiếu nền tảng giáo lý căn bản

Điểm quy chiếu cần thiết, nền tảng cho mọi hành động, quy chuẩn cho từng suy nghĩ chính là nền tảng giáo lý đối với mỗi người Công giáo. Đây là yếu tố căn bản nhất, ảnh hưởng nhất đến đến đời sống Đức Tin của mỗi Kitô hữu. Việc học giáo lý ngày một sa sút, không những ở thành thị mà cả nông thôn. Ngày nay, không còn tiếng vang của những giờ học giáo lý như xưa, những câu thưa, câu đáp dần dần đi vào dĩ vãng; tiếng trẻ con đọc kinh, học bổn nay cũng hiếm dần. Dường như việc học giáo lý cũng dần biến chuyển theo “mốt” của thời đại.

Khi mà giáo lý không còn là “sơ cấp, căn bản” thì những hiểu biết cơ bản về Đức Tin, về Thiên Chúa bị mờ nhạt như là một hậu quả tất yếu. Thử hỏi khi bước vào một môi trường mới, hòa nhập vào xã hội với đầy rẫy những ngã rẽ hấp dẫn của thế gian, sinh viên còn giữ được bản thân mình không? Còn giữ được vững cái nền tảng của Đức Tin Kitô giáo?

Ngày hôm nay, sinh viên quá xem thường giáo lý mà Hội Thánh đề ra, mà còn xem đó là một mớ lý thuyết hỗn độn không đáng quan tâm. Trong khi đó, Giáo hội vẫn luôn khẳng định “ Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo là một công cụ nâng đỡ Đức Tin, đặc biệt trong môi trường xã hội tục hóa và khoa học kỹ thuật hôm nay” (tài liệu Năm Đức Tin của Tổng Giáo phận Sài Gòn). Như vậy, trong thời kỳ toàn cầu hóa này, chúng ta cần một nền tảng giáo lý vững chắc để có thể đứng vững và làm quy chiếu cho mọi hành động và suy nghĩ trong cuộc sống hằng ngày.

Không những thế, Giáo Hội còn mời gọi chúng ta là những chứng nhân Tin Mừng giữa đời như lời Đức Thánh Cha gửi gắm: “Ngày nay Giáo Hội phải dấn thân một cách thuyết phục hơn nữa qua công cuộc Tân Phúc âm hóa, để tái khám phá niềm vui Đức Tin và tìm lại niềm hăng say thông truyền Đức Tin. Việc dấn thân truyền giáo của các tín hữu, vốn không bao giờ được thiếu, sẽ nhận được sức mạnh và tinh thần hăng hái qua việc hằng ngày nhận ra tình yêu của Thiên Chúa”. (Tự sắc Porta Fidei – Cánh cửa Đức Tin, số 7).

Thay lời kết

Trên đây là phần nào những thách đố của thời đại đã và đang ăn sâu vào đời sống con người, cách riêng là những sinh viên gây hiệu ứng to lớn đến đời sống Đức Tin của mỗi chúng ta. Như Đức Thánh Cha Benedicto XVI khẳng định: “Quả thật, nhiều hơn so với trước đây, Đức Tin hiện đang phải đối diện với một loạt vấn đề, do não trạng con người đã thay đổi...” (Tự sắc Porta Fidei – Cánh cửa Đức Tin, số 12). Đó là những thách đố lớn đối với Đức Tin của người Kitô hữu, cách riêng là những bạn trẻ.Năm Đức Tin, Đức Thánh Cha mời gọi mọi người, cách riêng là những sinh viên hãy nhìn lại hành trình Đức Tin một cách rõ ràng và tổng quát. Qua đó, chúng ta có sự chuẩn bị, trau dồi và bổ dưỡng cho Đức Tin của mình ngày một vững chắc, sống động, hài hòa với thời gian và xã hội.

Để đạt được điều đó, thì trước hết mỗi chúng ta hãy quy chiếu mọi sự về Đức Kitô, hãy “bén rễ và được xây dựng trên Chúa Kitô, nhờ đó chúng ta được củng cố trong Đức Tin”(Bài giáo lý 2 cho giới trẻ Việt Nam tại ngày Giới trẻ thế giới 2011 – Gm. Vũ Văn Thiên). Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta cùng hướng lòng lên Mẹ Maria, học nơi Mẹ một Đức Tin vững mạnh, một niềm tin tuyệt đối ngang qua hai tiếng “Xin vâng”. Để Mẹ hướng dẫn, củng cố ta trong Đức Tin và thúc đẩy ta loan truyền tình thương Cứu độ của Chúa.

Xin mượn lời của Đức Thánh Cha Benedicto XVI trong Tự sắc Porta Fidei (Cánh cửa Đức Tin) để thay cho lời cuối cùng muốn nói: Mỗi chúng ta hãy “tái khám phá hành trình Đức Tin để luôn làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say mới của việc gặp gỡ Đức Kitô”  đồng thời “khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng Đức Tin trong sự toàn vẹn và mới niềm xác tin được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng” và “ước gì Năm Đức Tin này làm cho tương quan của chúng ta với Chúa Kitô vững chắc thêm mãi, vì chỉ trong Người chúng ta mới vững lòng nhìn về tương lai và được bảo đảm về một tình yêu đích thực và lâu bền” (Tự sắc Porta Fidei, số 2, 9 và 15).

 

                                                                                   Nhân dịp khai mạc Năm Đức Tin,

                                                                                                    J.B Lê Đình Nam


 ..........................................................................................................................................

TIN – GẶP GỠ


Khi nói về đức tin, một trong những khái niệm được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhấn mạnh, đó là sự gặp gỡ của cá nhân của con người với Thiên Chúa. “Ngay từ khi bắt đầu sứ vụ kế vị Thánh Phêrô, tôi đã nhắc nhở về sự cần thiết phải tái khám phá hành trình đức tin để ngày càng làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say phấn khởi được đổi mới nhờ được gặp gỡ Chúa Giêsu” (Tự sắc Cửa Đức tin, số 2). Cuộc gặp gỡ với Chúa sẽ biến đổi cuộc đời của người tín hữu, giúp họ nên thánh.
Từ ban đầu của lịch sử, Thiên Chúa đã muốn gặp gỡ con người. Qua công trình sáng tạo, Ngài mời gọi con người từ hư vô đến hiện hữu để gặp gỡ và chia sẻ cho họ vinh quang của Ngài. Việc con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa cho thấy Chúa muốn đồng hóa với con người. Ngài tạo nên con người giống như mình, điều đó cũng có nghĩa là Ngài muốn nên giống họ. Ngài muốn gửi gắm nơi gương mặt con người dấu ấn của Ngài. Sự kiện “giống Thiên Chúa” nơi con người cho thấy Ngài hiện hữu nơi họ, đồng hành với họ trong mọi nẻo đường của cuộc sống. Sáng tạo chính là một cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa Thiên Chúa với con người.
Khởi đi từ cuộc gặp gỡ ban đầu ấy, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đến với con người, kể cả khi họ phạm tội bất trung với Ngài. Câu chuyện vườn Địa đàng sau khi con người phạm tội đã chứng minh điều đó: Thiên Chúa đến gặp gỡ Ađam mặc dầu ông và vợ mình đang xấu hổ chạy trốn không dám ra gặp Chúa.
Như vậy, lịch sử cứu độ cũng là lịch sử của một chuỗi những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Cũng có khi Ngài gặp gỡ họ để trách móc, lên án và trừng phạt, nhưng tất cả đều nhằm bày tỏ tình yêu thương, mong muốn cho họ luôn đi đúng đường lối Ngài chỉ dạy để nhờ đó mà họ được hạnh phúc.
“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Trong lịch sử, cuộc gặp gỡ vĩ đại nhất giữa Thiên Chúa và con người là Mầu nhiệm Nhập thể. Con Thiên Chúa đã mang lấy thân phận con người. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa và con người được gặp gỡ nhau, mật thiết đến nỗi trở nên một, giống như sự liên kết mật thiết của một cuộc hôn nhân. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa cúi mình xuống để gặp gỡ con người. Cũng nơi Đức Giêsu, con người được nhấc bổng khỏi thân phận tội lỗi bất xứng, để được thần linh hóa. Các tác giả Tin Mừng nói với chúng ta Chúa Giêsu gặp gỡ hết mọi người: từ những chính trị gia cho đến người dân nghèo, từ những luật sĩ thông thái đến những quả phụ cô thế cô thân; từ những người thánh thiện đến những người tội lỗi. Tất cả những ai đến với Chúa Giêsu hoặc lắng nghe giáo huấn của Người đều cảm nhận tình hiền phụ nơi Chúa Cha.
Như Đức Giêsu đã chủ động đến gặp gỡ con người để nói với họ về Chúa Cha, hôm nay, Người cũng đang đến gặp gỡ chúng ta để chỉ cho chúng ta suối nguồn hằng sống, là quà tặng chính Người đem đến cho nhân loại. Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta được mang danh của Chúa Kitô, được sở hữu Người để rồi qua Người, chúng ta được gặp gỡ Chúa Cha. Thiên Chúa do Đức Giêsu mặc khải không còn là một vị chúa nghiêm khắc trừng phạt, nhưng là Cha yêu thương. “Đức tin được quyết định hoàn toàn trong mối tương quan mà chúng ta thiết lập với con người của Chúa Giêsu, Đấng là người đầu tiên đến gặp gỡ chúng ta” (Sứ điệp Thượng HĐGM Thế giới lần thứ XIII, số 3). Đức tin vừa là ân ban của Thiên Chúa, vừa là kết quả do nỗ lực cố gắng của con người. Sự cộng tác và thiện chí của con người sẽ làm đức tin lớn lên, sinh hoa kết trái và chiếu tỏa trong cuộc đời.
“Khởi đầu cho cuộc sống Kitô hữu không phải là một quyết định đạo đức hay một tư tưởng vĩ đại, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố, với một Con Người, Đấng đem lại cho đời sống chúng ta một chân trời mới và một định hướng dứt khoát” (Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, số 1). Cuộc gặp gỡ với Con Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta tìm thấy hướng đi của cuộc đời mình. Điều đó cho thấy trọn vẹn cuộc sống của chúng ta là sự nối dài của cuộc gặp gỡ ấy, để rồi càng ngày, chúng ta càng tiến vào thâm sâu hơn của mối tình Thiên Chúa - con người.
Như vậy, tin không chỉ là hành động của lý trí, mà còn là của con tim. Nhờ lý trí, chúng ta tin có Chúa hiện diện. Nhờ trái tim, chúng ta yêu mến và gặp gỡ tâm sự với Ngài, nhờ đó mà chúng ta được thần linh hóa. “Con tim chỉ rằng hành vi đầu tiên ta đạt đến đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa và tác động của ơn thánh hành động và biến đổi con người ngay từ nội tâm” (Tự sắc Cửa Đức tin, số 10).
Thiên Chúa hiện diện khắp mọi nơi. Ta có thể gặp Ngài cách dễ dàng. Tuy vậy, có những phương pháp giúp ta dễ gặp Chúa hơn, đó là cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa và thực thi bác ái. Qua những thực hành đạo đức này, chúng ta sẽ có một đức tin trọn vẹn trong lời tuyên xưng cũng như trong thực hành cụ thể.
Mỗi ngày, chúng ta có biết bao cuộc gặp gỡ: giữa bạn bè đồng nghiệp, giữa những thành viên trong cùng một gia đình, người thân quen trong lối xóm và ngay cả giữa những người không hề quen biết. Những cuộc gặp gỡ ấy sẽ là một cơ hội để kết nối tình bạn, nếu được xây dựng trên nền tảng của cuộc gặp gỡ với Chúa. Bởi lẽ, nhờ gặp gỡ Chúa mà cuộc đời chúng ta được thấm đượm tinh thần của Người.
Trong cuộc sống, mỗi lần gặp gỡ tha nhân, chúng ta có những khám phá mới, biết người hơn và cũng biết mình hơn. Cũng vậy, mỗi lần gặp gỡ Chúa, con tim ta cảm nghiệm sự ngọt ngào của tình yêu thiêng liêng vĩnh cửu. Thánh Augustinô đã thốt lên:
“Lạy Chúa, Chúa là vẻ đẹp của ngàn xưa,
Một vẻ đẹp mỗi ngày mỗi mới”.
Chúa là Đấng thường hằng bất biến. Vẻ đẹp của Ngài từ ngàn đời vẫn thế, vì Ngài không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Tuy vậy, mỗi khi gặp gỡ Ngài, chúng ta lại có những khám phá mới mẻ, mỗi lúc khởi đầu ngày mới lại là một cuộc lên đường theo Chúa với nghị lực và niềm vui mới. Đó là lý do tại sao thánh lễ ngày nào cũng giống nhau mà chúng ta tham dự không hề chán. Điều đó lý giải việc đọc đi đọc lại kinh Kính Mừng khi đọc Kinh Mân Côi mà vẫn thấy say sưa một cách lạ kỳ. Cùng một bản văn Thánh Kinh, cùng một nghi thức phụng vụ, nhưng mỗi người lại có những cảm nhận riêng, nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần và nhờ sự đáp lại của mỗi chúng ta trong cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa.
Năm Đức Tin đã khai mạc. Cửa Đức Tin đã mở ra để “dẫn chúng ta vào đời sống hiệp thông với Thiên Chúa và vào Giáo Hội” (Tự sắc Cửa Đức tin, số 1). Ước mong mỗi tín hữu sẽ được “gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh”, nhờ đó, họ trở nên môn đệ trung tín của Người giữa trần gian.

+ Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
......................................................................................................................
                                    
                                   Năm Đức Tin: Thế nào là người thực sự có Đức tin?

Năm Đức tin đã được mở ra trong Giáo Hội từ ngày 11 tháng 10 năm 2012 cho đến ngày 24 tháng 11 năm 2013.Mục đích là để mọi người trong Giáo Hội nhìn lại đời sống đức tin của mình để trước hết cảm tạ Thiên Chúa đã ban quà tăng đức tin vô giá cho chúng ta và từ đó thêm quyết tâm sống đức tin cách cụ thể và có chiều sâu hơn nữa để thích nghi với những thách đố của thời đại tục hóa, trống vắng mọi niềm tin này, và cũng để phúc âm hóa người khác, tức là mời gọi thêm nhiều người nữa nhận biết và tin yêu Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại.
Đó là tất cả ý nghĩa và mục đích của công cuộc “Tân phúc âm hóa để loan truyền đức tin Kitô-Giáo=New Evangelization for the transmission of  Christian faith) mà Giáo Hội thi hành trong Năm Đức Tin này
Thực vậy, chúng ta đang sống trong hoàn cảnh tục hóa của thời đại tôn thờ vật chất ( Materialism) chuộng khoái lạc ( hedonism) vô thần ( atheism) và phi luân vô đạo ( amoralism).
Do đó, hơn bao giờ hết, là người tin có Thiên Chúa là Đấng tạo dựng con người và muôn vật hữu hình và vô hình, tin Chúa Kitô là Đấng cứu chuộc nhân loại, tin Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự  sống và là Thần Chân Lý,  hiệp nhất cùng một  bản thể với  Chúa Cha, và Chúa Con trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi một Thiên Chúa duy nhất. Tin Mẹ Maria là Mẹ thật của Chúa Kitô và cũng là Mẹ Thiên Chúa ( Theotokos) trọn đời đồng trinh và được về trời cả hồn xác. Tin Hội Thánh Công Giáo là Thân Thể mầu nhiệm của Chúa Kitô trong sứ mệnh bảo vệ kho tàng đức tin và rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô cho đến ngày mãn thời gian và tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại.
Đó là nội dung căn bản của Đức Tin Công Giáo mà chúng ta hãnh diện tuyên xưng, sau khi được  lãnh nhận qua  Phép Rửa  để trở thành tạo vật mới và được phép gọi Chúa là Cha. ( Abba).
Như thế “đức tin là bảo đảm cho ta những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám.” ( Dt 11 : 1-2)
Trước hết, Đức tin là điều kiện tiên quyết cho ta được cứu độ nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, Đấng đã đến trần gian làm Con Người để “ phục vụ và hiếm nạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” ( Mt 20; 28).
Do đó, phải có đức tin để tin Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc để nhờ Người mà ta được cứu rỗi nếu ta thực sự cộng tác với ơn cứu rỗi đó bằng quyết tâm sống theo đường lối của Chúa trong suốt cuộc đời trên trần thế này.  
Nhưng  phải sống đức tin cách nào cho xứng đáng là người thực sự có đức tin ?
Có đức tin là điều tối cần thiết nhưng quan trọng hơn là phải sống đức tin ấy  bằng hành động cụ thể từ trong tâm hồn ra đến mọi hành động bên ngoài giữa bao người không có đức tin để minh chứng mình khác với họ ở  điểm then chốt là có động lực nội tâm hướng dẫn mọi mọi tư tưởng, tình cảm và hành động của mình  về  Thiên Chúa là đich điểm của mọi sự thiện  hảo , sự lành và trong sạch  giữa thế gian ô uế  vì tội lỗi, vì gian ác và đầy bất công, vô nhân đạo. Động lực đó là niềm tin có Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, uy quyền vô song, rất công bình và giầu tình thương.
 Như vậy, người có  đức tin phải sống đức tin ấy  sao cho phản ảnh trung thực những đặc tính  của Đấng mình tin yêu tôn thờ để nhờ sống niềm tin như vậy, ta sẽ giới thiệu Chúa cho người khác chưa biết Chúa để họ được thấy Chúa hiện diện trong ta và đem lòng tin yêu Người như Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ xưa:
“Chính anh  em là ánh sáng cho trần gian….Cũng vậy , ánh sáng của anh  em phải chiếu giãi trước mặt người  thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp anh  em làm, mà tôn vinh Cha của anh  em  Đấng ngự trên trời.” ( Mt 5, 14-16)
Nói rõ hơn, trong khi những người không có niềm tin Chúa, nên làm những việc sai trái như  thề gian, nói dối, bất công bóc lột người khác, trộm cắp, nhất là  giết người, gian dâm, cờ bạc, thay vợ  đổi chồng, tiếp tay với kẻ cầm quyền vô đạo  để đàn áp, triệt hạ những ai chống đối đòi quyền sống và công bình xã hội.. thì người có đức tin phải nêu cao những giá trị của niềm tin là ngay thẳng, lương thiện, công bình, bác ái, yêu thương, tha thứ và trong sạch để nên nhân chứng đích thực cho Chúa trước mặt những người không có niềm tin và đang làm những sự xấu, sự dữ  nói trên,  để mong thức tỉnh họ từ bỏ con đường dẫn đến hư mất đời đời.
Như thế, sống đức tin cách hoàn hảo và cụ thể không những góp phần phúc âm hóa người khác mà  còn nói lên chính mình  là người thực sự  tin có Thiên Chúa là Cha toàn  năng, Đấng tạo dựng muôn loài, mọi vật  và đặc biệt tạo dựng con người “ giống hình ảnh Thiên Chúa” (St 1, 27) Đấng “ muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (1 Tm 2, 4), vì “Thiên Chúa là tình yêu..” ( 2 Ga 4, 8).
Nói khác đị, đức tin phải được chứng minh bằng hành động cụ thể để cho thấy sự trung thực   giữa lý thuyết và thực hành, giữa lời nói suông là có đức tin khác biệt với hành động được đức tin thúc  đẩy , soi dẫn và qui chiếu về Thiên Chúa là nguồn mạch chân lý, và thiện hảo như Thánh Gia-cô-bê Tông Đồ đã dạy  như sau:
“Hỡi người đầu óc rỗng tuếch: bạn có muốn biết rằng đức tin không có hành động là vô  dụng không? ông Ap-bra-ham tổ phụ chúng ta đã chẳng được nên công chính nhờ hành động , khi ông hiến dâng con mình là I-Xa-ac trên bàn thờ đó sao? Bạn thấy đó, đức tin hợp tác với hành động của ông, và nhờ hành động mà đức tin nên hoàn hảo.” ( Gc 2, 20-22)
Nghĩa là,  vì  có đức tin mạnh mẽ  và lòng mến Chúa thâm sâu, nên ông Abraham đã dám hy sinh con một của ông là Issac theo lời đòi hỏi của Thiên Chúa nhằm thử thách đức tin và lòng mến của ông. Nếu Chúa không sai Sứ thần đỡ lấy tay ông đang cầm dao vung lên, thì chắc chắn con ông đã bị giết. Thiên Chúa đã can thiệp  để cứu mạng sống của Issac, vì đã nhìn thấy rõ đức tin phi thường của ông Apbraham, nên Chúa đã phán bảo ông như sau qua Sứ thần của Người:
“Sứ Thần của ĐỨC CHÚA từ trời gọi ông Abraham một lần nữa và nói:” Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy danh Ta mà thề : bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển…chỉnh bởi vì ngươi đã vâng lời Ta.” ( St 22:  15- 18)
Sự kiện trên cho thấy là ông Abraham đã thể hiện cách cụ thể lòng tin yêu Thiên Chúa qua việc ông dám hy sinh con một của mình để tế lễ Chúa như Người đã truyền cho ông. Hành động cụ thể của ông đã đủ minh chứng đức tin mạnh mẽ và hoàn hảo của ông khiến ông trở nên người cha của những ai tin và yêu mến  Thiên Chúa  cách cụ thể  và đầy thuyết phục  như Thánh Gia-cô-bê nói trên đây.
Cũng phải kể  thêm gương đức tin sáng chói nữa là của các Thánh Tử Đạo- đặc biệt là các  anh hùng   Tử Đạo Viêt-Nam, cha ông chúng ta đã can đảm và anh dũng  chịu mọi cực hình để tuyên xưng niềm tin sắt son của mình trước bạo quyền bách hại.Chính nhờ máu các ngài đổ ra mà hạt giống đức tin đã nẩy sinh ra nhiều tin hữu cho Giáo Hội Việt-Nam.
Ngay nay, chúng ta không có cơ hội  đổ máu mình ra để tuyên xưng đức tin như các anh hùng Tử Đạo xưa kia.Nhưng chúng ta vẫn có nhiều cơ hội khác để minh chứng đức tin của mình trước bao người không có đức tin và đang làm những sự dữ  như giết người, giết thai nhi, bóp nghẹt  lương tâm để lường  gạt người khác, hoặc làm những việc có chủ đích mời gọi người khác phạm tội như mở sòng bạc , nhà mãi dâm,  buôn bán ma túy, hoặc  phụ nữ cho kỹ nghệ dâm ô dưới chiêu  bài “hôn nhân nước ngoài” khiến biết bao phụ nữ, vì nghèo đói, phải cam chịu đem bán mình làm thú vui  cho kẻ vô luân vô đạo ở trong và ngoài nước.
Trước thực trạng ghê tởm này, người tín hữn Chúa Kitô- đều được mong đợi  sống niềm tin của mình cách cụ thể  là không những  phải  xa tránh những lối sống vô luân vô đạo  nói trên  mà còn phải can đảm lên án những tụt hậu thê thảm về  luân lý, đạo dức của xã hội mình đang sống, theo gương Chúa Kitô, Người đã lên án tội lỗi của thế hệ đương thời như sau :
“Thế hệ gian ác và ngoại tình  này đòi dấu lạ.Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna..” ( Mt 16: 4)
Dấu lạ ông Giôna là dấu  dân thành Ni-ni-vê, nghe lời cảnh cáo của ngôn sứ Giôna để ăn chay, xám hối, xin Chúa tha thứ không đánh phạt và Chúa đã nhậm lời xin tha không trừng phạt họ như Người đã  ngăm đe. ( Gn 3: 1-10)
Như vậy , gương đức tin của ông Abraham và của các Thánh Tử Đạo phải là những khuôn vàng thước ngọc cho chúng ta  ngày nay noi theo để minh chứng cụ thể  trước  thế gian chúng ta thật sự tin yêu Chúa, Đấng chúng ta không được xem thấy, nhưng vững lòng tin có Người là Cha toàn năng. Người yêu thương mọi con cái loài người  đến mức đã hy sinh chính Con Một của mình là Chúa Kitô, Đấng cũng vui lòng hiến mạng sống mình cho chúng ta được tha thứ tội lỗi và có hy vọng được cứu độ để sống hạnh phúc muôn đời với Chúa tình thương trên Nước trời mai sau.
Phải nói là có hy vọng thôi chứ không phải là bảo đảm chắc chắn ngay từ  bây giờ vì tất cả còn tùy thuộc  một phần nơi thiện chí của mỗi người chúng ta trong cuộc sống đức tin trên trần thế này.
Thức vậy, chúng ta  phải sống đức tin có Chúa ở mọi chiều kích như đức tin đòi hỏi. Đó là -trước hết- phải thực tâm yêu mến Chúa trên hết mọi sự,và cương quyết từ  bỏ ma quỷ là kẻ gây ra mọi tội lỗi để mong đẩy  xa con người ra khỏi tình thương của Chúa. Đó là hành động  cụ thể để chứng minh hùng hồn đức tin hoàn hảo  vì “ đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết.” như Thánh Gia-cô-bê Tông Đổ đã dạy.(cf. Gc 2, 17)
Kinh nghiệm phổ biến trong cuộc sống ở khắp mọi nơi cũng cho ta thấy là người nào chỉ nói , nói nhiều , nói hay, mà không thực hành điều  mình nói thì chắc chắn sẽ không thuyết phục được ai tin những gì mình nói. Thí dụ hô hào, kêu  gọi  người khác làm việc bác ái, giúp đỡ thiết thực cho người đang nghèo đói, nhưng bản thân mình lại không hề bỏ ra một đồng  nào để giúp các nạn nhân trong khi mình có dư khả năng làm việc đó , thí làm sao lời hêu gọi của mình được ai hưởng ứng nữa ?
Lại nữa, khuyên người khác sống hòa thuận vợ chồng mà mình lại ly dị vợ hay chồng để lấy người khác trẻ, đẹp hơn thì lời khuyên của mình còn thuyết phục được ai nữa ?
Cũng vậy, mang danh người tín hữu Chúa Kitô mà tham gia vào những việc làm ăn bất lương, bất công, bóc lột người khác, dửng dưng trước sự khò nghèo của người khác, có dư thì giờ đi hu hí, nhẩy nhót mất nết, vui chơi thâu đêm suốt sáng, nhưng lại không có giờ đi dự lễ ngày Chúa Nhật cách trọn vẹn, cũng như không hề cầu nguyện và  năng xưng tội , rước Mình Thánh Chúa, thì đức tin kia còn sống hay đã chết ?
Lại nữa, miệng nói tôi tin Chúa Kitô, mà chân lại  bước vào những con đường dẫn đến các sòng bạc lớn nhỏ, đến những  nơi mua bán dâm ô, hoặc những nơi giải tri tội lỗi  để thỏa mãn thú vui xác thịt, và nhất là  thú  ấu-dâm ( child prostitution)  rất  khốn nạn  thì mang danh Công giáo và  tuyên xưng đức tin ngoài môi miệng có ích lợi gì cho ai ?
 Khi lời nói không đi đôi với việc làm thì sẽ trở thành người đạo đức giả, giống bọn biệt phái và luật sĩ  mà  Chúa Giêsu đã nặng lời chỉ trích xưa kia.
Những ai sống kiểu này cần nghe lại lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa như sau:
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy, Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu, Nhưng chỉ ai ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” ( Mt 7, 21)
Thi hành ý muốn của Cha trên Trời có nghĩa là phải sống đức tin thực sự từ trong tâm hồn ra đến hành động bên ngoài sao cho phản ảnh trung thực những giá trị của Tin Mừng Cứu Độ mà Chúa Kitô  đã rao giảng và không hổ thẹn phải xưng danh Chúa và sống những đòi hỏi của Phúc Âm sự sống trước mặt người đời, trước mặt những kẻ đang sống theo “văn hóa của sự chết” để làm những điều  gian ác vô luân vô đạo ở khắp nơi.
Người tín hữu nào không có can đảm sống đức tin như vậy thì hãy nghe lời Chúa cảnh giác sau đây :       
“Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì Ta và những lời Ta dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh Thiên thần, trong vinh quang của Cha Người. “ ( Mc 8, 38).
Tóm lại, Năm Đức Tin mời gọi mọi tín hữu không những dâng lời cảm tạ Chúa về quà tặng đức tin quý giá đã nhận được, mà cần thiết phải nhìn lại cách sống đức tin của mình trong bao năm qua,  để từ đó – với ơn Chúa Thánh Linh soi sáng - biết chuyển hướng  đời sống đức tin của mình cho thêm cụ thể và sống động  để sống xứng đáng là nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt người khác trong hoàn tục hóa, phản Kitô-giáo của thế giới ngày  nay.

Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

............................................................................................................... 
Con người chỉ có thể được cứu nhờ lòng Tin

Trong những ngày vừa qua, toàn thể Giáo hội đã long trọng khai mạc Năm Đức Tin, bắt đầu từ ngày 11/10/2012 đến ngày 24/11/2013. Qua Tự sắc “Cánh Cửa Đức Tin”, Đức Thánh Cha đã thúc giục mọi tín hữu hãy tái khám phá hành trình đức tin của mình, để sống đức tin một cách trưởng thành, trong sự tự do và phong phú mà Thiên Chúa đã trao ban.

Cùng “nhịp đập con tim” của Giáo hội, Chương trình Chuyên đề Giáo dục thuộc Ban Mục vụ Gia đình TGP. Sài Gòn, đã tổ chức khóa học “Sống Đức Tin” gồm 6 đề tài vào các chiều thứ Bảy, kể từ ngày 20/10/2012, nhằm giúp các tín hữu trong Tổng Giáo phận có thể cùng nhau học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm sống Đức Tin. Buổi nói chuyện đầu tiên trong khóa này mang tên “Sống Đức Tin Giữa Đời Thường”, do Cha Giuse Nguyễn Trọng Viễn, OP chia sẻ, đã thu hút đông đảo các nam nữ tu sĩ và giáo dân, ngồi chật kín Hội trường Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận thuộc Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo phận.

Biểu dương đức tin

 Sau bài múa khởi động và cầu nguyện đầu giờ như thường lệ, trong vai trò dẫn chương trình phụ giảng cho Cha giáo Giuse Nguyễn Trọng Viễn, Thầy Giuse Hà Đình Tuấn đã giới thiệu phần dẫn nhập đề tài. Theo thầy, sống đức tin giữa đời thường là biểu hiện của niềm tin trong từng khoảnh khắc của cuộc sống, là tuyên xưng, phó thác vào Đấng Cao Cả là Thiên Chúa. Tại Thế vận hội Luân Đôn năm 2012 vừa qua, mọi người rất vui mừng và xúc động khi chứng kiến giây phút nữ vận động viên cự ly dài, người Ethiopia Meseret Defar chạm đích đến để đoạt huy chương vàng của cuộc thi, chị đã hôn lên hình Đức Mẹ và òa khóc trong nỗi vui mừng ngất ngây. Chị Defar đã công khai thể hiện niềm tin của mình một cách đơn sơ và mộc mạc để tạ ơn Thiên Chúa đã cho chị chiến thắng. Còn mỗi người chúng ta, đâu là một hành động đức tin trong đời thường? Những khoảnh khắc thinh lặng, buông lỏng để phó thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta có cầu nguyện không? có sống niềm tin không?

Các lãnh vực của lòng tin

Để khơi gợi đề tài sống đức tin trong đời thường, thầy đã dẫn dắt khán thính giả đi tìm ý nghĩa của các lãnh vực của lòng Tin, vốn được đặt trong những xô bồ, bấp bênh, tất bật của cuộc sống hằng ngày. Nó được thể hiện rất rõ nét qua việc giữ chữ Tín trong gia đình và ngoài xã hội.

Chữ tín

Trích dẫn từ một bài báo mang tên “Chữ tín người cầm bút”, thầy đã kể những câu chuyện của những nhà báo đã đánh mất chữ tín của mình trong quá trình tác nghiệp, khiến cho người ta mất đi lòng tin nơi giới nhà báo.

Một nhà báo nọ đã đến gặp một lão nghệ nhân còn lưu giữ rất nhiều tư liệu quý về “Chuyện cười dân gian”, nài nỉ xin cụ cho mượn tài liệu và hứa sẽ gửi trả. Nhưng mượn được rồi thì “lặn” mất tăm, làm cụ đợi hết ngày này qua tháng nọ. Còn cô phóng viên kia đến gặp một vị lão thành cách mạng xin phỏng vấn để viết bài. Cô hứa sẽ gởi bản thảo để cụ sửa cho chính xác về cuộc đời hoạt động của cụ. Nhưng sau đó thì cô tự tiện viết thêm thắt không đúng sự thật, có những chi tiết cụ kể với tính cách riêng tư, nhưng cô cũng đưa lên mặt báo, làm cho một số bạn bè của cụ đọc bài báo lại hiểu lầm, rằng cụ thêm thắt, kể công vì thích được danh tiếng. Kế đến là câu chuyện phóng viên hẹn phỏng vấn ông giám đốc, nhưng trễ hẹn cả tiếng đồng hồ, để ông phải chờ đợi; hoặc có phóng viên phỏng vấn một bà lão, hứa sẽ tặng báo biếu khi bài được đăng, nhưng xong việc rồi thì “cao chạy xa bay”.

Để kết thúc phần gợi mở, thầy cho hay: Lương tâm nghề nghiệp và thái độ tôn trọng của bản thân đối với các mối tương quan gia đình, nghề nghiệp và xã hội là rất quan trọng. Chữ tín có một giá trị rất lớn, nó là tài sản khổng lồ mà ít người để ý đến. Và để có tài sản này, đôi khi chúng ta phải xây dựng nó từng phút một. Thế nhưng, để phá hủy tài sản vô giá ấy, chỉ cần một lần thất hứa, thì uy tín của chúng ta đã bị sụp đổ tan tành.

Lời hứa

Với phong cách vui vẻ, cởi mở và cuốn hút người nghe, Cha Giuse đã mở đầu bằng cách đặt ra một tình huống thú vị về lời hứa: Một anh nọ hứa sẽ cho bạn mượn tiền vào đầu tháng sau, nhưng rủi thay, ngay cuối tháng đó, trộm đã vào nhà lấy sạch tiền, anh phải giải quyết thế nào khi người bạn đến hỏi vay tiền? Phải chăng anh nói thật rằng mình bị mất trộm nên xin bỏ qua để khỏi phải thực hiện lời hứa? Thực tế, có những lúc người ta phải vượt qua được tình huống hiện tại, để giữ trọn lời hứa. Vì thế, tuy hết tiền nhưng anh phải tìm mọi cách để thực hiện lời hứa. Đó là phẩm chất đặc biệt của một con người có nhân cách.

Trong thực tế của cuộc sống, chúng ta vẫn phải có lời hứa, giao ước, giao kèo và hợp đồng. Đó là điều không thể tránh khỏi. Nhưng, một khi đã hứa, đã giao kèo thì không thể phớt lờ cho qua, mà phải thực hiện cho bằng được. Như vậy, mới thực sự là người có giáo dục và nhân bản.

Đi vào đời sống gia đình, có người thấm thía rằng: Đời sống gia đình thật nặng nề, khó khăn, thậm chí cay đắng! Nhưng một khi đã đưa nhau tới nhà thờ, đã thề hứa trước mặt Chúa và Hội Thánh, thì dù có ra sao chúng ta cũng không được phá vỡ cuộc hôn nhân. Cần phải nhận thức rằng: Hôn nhân Công giáo là một giao ước và được bảo đảm bằng lời hứa của chính mình. Sâu xa hơn, nhờ ân sủng Chúa ban qua bí tích Hôn Phối, đôi bạn sẽ chu toàn trách nhiệm vợ chồng và giữ lòng chung thủy với nhau cho đến trọn đời.

Chúa đã hứa rất nhiều với con người: Trong vườn Địa đàng, Chúa hứa cho dòng dõi người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn. Chúa hứa với tổ phụ Abraham sẽ cho dòng dõi ông đông dúc như “sao trên trời, như cát dưới biển”. Chúa hứa sẽ đưa dân Do Thái về miền đất hứa “chảy sữa và mật ong”… và Ngài đã thực hiện trọn vẹn. Qua những việc thực thi lời hứa ấy, Chúa muốn mời gọi chúng ta hãy tin tưởng nhau, hãy thi hành lời hứa, và nắm bắt được những dấu hiệu của niềm tin.

Tâm, tài và luật pháp

Ngày xưa, cụ Nguyễn Du nói rằng: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, nghĩa là cái tâm quan trọng hơn cái tài. Hơn nữa, phải có cái tâm mới có thể hướng dẫn, điều khiển được cái tài, và tùy theo mức độ của tài mà có cái tâm thích hợp. Ngược lại, người có tâm lớn nhưng tài mọn thì sẽ trở thành kẻ phá hoại. La Tử Phúc có nói: “Có học vấn mà không có đạo đức là người ác. Có đạo đức mà không có học vấn là người quê”. Tuy nhiên, có vẻ như phương án về tâm và tài đã không thể thực hiện được trong thời đại ngày nay do mọi sự đang tiến bộ quá nhanh: cái gì cũng phải học hỏi, cái gì cũng phải thăng tiến, cái gì cũng phải có thêm kiến thức. Dường như, sự phát triển đã buộc người ta không thể chờ những người có đủ cái tâm để dạy những kiến thức đáp ứng cho nhu cầu của thời đại, vì vậy người ta chọn cách loại bỏ cái tâm đi, chỉ lấy cái tài. Ai có nhu cầu học hỏi bất cứ ngành nghề gì, cứ đóng tiền thì học, họ không cần biết cái tâm thế nào, có hợp với ngành nghề cần học hay không; còn ai có khả năng dạy kiến thức thì cứ dạy, chẳng cần dạy về lương tâm nghề nghiệp ra sao.

Với xu thế phát triển, người ta lấy pháp luật thay cho cái tâm, thay cho chữ tín; người ta tin pháp luật sẽ giải quyết mọi tình huống trong xã hội. Nhưng trong thực tế, luật pháp không thể kiểm soát hết được; vả lại, bao nhiêu chuyện trong đời sống xã hội không phải lúc nào cũng dùng đến pháp luật. Thế là lãnh vực của cái tâm, trong đó có chữ tín, ngày càng bị giảm sút. Thế nên, người ta không còn biết tin ai; thức ăn, đồ dùng thật giả, độc hại, nguy hiểm cho sức khỏe con người thế nào không biết đâu mà lường!

Tình thế của xã hội ngày nay khiến người ta không còn coi trọng chữ tín, vì họ tin rằng: Luật pháp có thể giải quyết được tất cả. Tuy nhiên, luật pháp “cần” nhưng “không đủ”. Vì thế, niềm tin không phải là vô ích, con người cần phục hồi niềm tin, cần tìm lại chữ tín trong cuộc sống đời thường.

Phẩm chất của lòng Tin

Trước khi trình bày về phẩm chất của lòng Tin, Cha Giuse đã giới thiệu cho cộng đoàn xem đoạn video nói về 10 phẩm chất oai hùng của các chứng nhân đức tin thời kỳ Tông tòa của Giáo hội Việt Nam từ năm 1659 đến 1960. Đó là: không cuồng tín, không để liên lụy, không man trá, cuộc đời như một Thánh lễ, tôn trọng pháp quyền, gắn kết cộng đoàn, tuyên xưng đức tin, trung tín đến cùng, lòng bao dung tha thứ, xác tín với niềm tin Phục sinh.

Con người bắt đầu đi vào một phẩm chất khác trong tương quan với nhau. Bởi vì, khi người ta không có lòng đón nhận nhau thì đành phải tìm cách ép buộc nhau. Người ta thường thích thống trị theo kiểu bạo chúa. Nhưng không bao giờ chinh phục được nhân tâm do chỉ có bạo lực và thống trị, cho nên càng độc tài bao nhiêu càng cô đơn bấy nhiêu, vì không ai thực sự quý trọng mình. Thế nhưng, sống lòng tin là để cho tha nhân tự do thực hiện điều mà bản thân mình khao khát, mong ước.

Tin để sống thú vị như một cuộc chơi. Vì khi tha nhân tự nguyện đáp lời mời gọi của mình thì niềm vui sẽ vỡ òa. Con người cần có niềm vui, và niềm vui lớn nhất, sâu xa nhất chính là đi vào cuộc phiêu lưu với mối tương quan cao đẹp. Đó là mối tương quan tự khám phá nhau, tự nguyện làm điều mà người kia thích, đồng thời chờ đợi người kia làm những điều có thể thỏa mãn lòng mình. Sâu xa nhất, là người ta khao khát tình nghĩa, đó chính là phẩm chất của lòng tin. Trong cuộc phiêu lưu này, người ta giữ khoảng cách với nhau để không xâm phạm vào nhau, không phải mạnh ai nấy đi, không phải do luật chi phối mà do lòng tin gìn giữ để có thể đi vào cuộc chơi song song bay lượn.

Tin là phẩm chất cao quý nhất trong mối tương quan giữa con người với nhau, không luật pháp hay lối giải quyết nào có thể thay thế, chỉ có chiều ý nhau trong niềm tin vào nhau, đó là cách tương quan với nhau trọn vẹn phẩm giá con người hơn hết.

Con người chỉ có thể được cứu nhờ lòng Tin

Để cứu độ con người, Chúa mời gọi con người tin vào Chúa. Tin vào Chúa là để được cứu rỗi. Nhưng cần phải biết mình được cứu khỏi cái gì. Chỉ khi nào hiểu ra mình được cứu khỏi cái gì thì mới có thể hiểu được cần có đức tin vào Chúa như thế nào. Vì thế, cần trở về điểm căn bản quan trọng trong đời sống đức tin, như lời Thánh Phaolô: “Nguyện xin Thiên Chúa gìn giữ anh em để thần trí, linh hồn và thân xác anh em được vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến” (1 Tx 5,23).

Theo quan niệm của người Do Thái, con người toàn diện có 3 khía cạnh: thần trí, linh hồn và thân xác. Thần trí của con người nghĩa là con người toàn diện trong khía cạnh tương giao với Chúa. Khi nói thân xác con người yếu đuối nghĩa là con người toàn diện trong khía cạnh yếu đuối và bị bế tắc của mình. Khi nói linh hồn của con người thì đó cũng là con người toàn diện trong khía cạnh là sự sống nội tại, có suy nghĩ, có khao khát, có yêu mến, có ý chí, có những quyết định trong cuộc đời. Linh hồn đó hoặc là “hứng theo thần trí”, hoặc là “hứng theo xác thịt”.

Nếu con người toàn diện trong khía cạnh thần trí tương giao với Chúa thì khi ăn cơm, chúng ta thánh hóa giờ ăn; khi đi ngủ, chúng ta làm dấu thánh giá thánh hóa giờ ngủ; hoặc có đi chơi, làm việc đi nữa, chúng ta vẫn sống với Chúa trong thân xác của mình.


Nếu con người toàn diện trong khía cạnh thân xác yếu đuối hay cuộc sống nội tại đã “hứng theo xác thịt” thì ngay cả khi đọc kinh thờ phượng Chúa hay tham dự Thánh lễ là tương giao với Chúa, nhưng người ta vẫn có thể có thái độ theo tính xác thịt, nghĩa là chỉ làm lấy lệ, cho xong bổn phận chứ không thực sự sống trong mối tương quan thực sự với Thiên Chúa. Nếu linh hồn không “hứng theo thần trí”, nghĩa là không tin vào Chúa, không mở cửa thần trí ra thì mọi suy tính, làm việc, ao ước, quyết đoán chuyện này, chuyện kia toàn là theo tính xác thịt. Nếu con người giao tiếp với vũ trụ (ăn, uống ngủ, nghỉ) và giao tiếp với nhau mà không “hứng theo thần trí” thì người ta bị giam hãm trong tính xác thịt, đó là những suy tính rất đời thường của con người. Trong suy tính đó, sự ác xuất hiện, dấu hiệu của sự chết xuất hiện và cuộc sống bị bế tắc. Từ đây, có thể thấy rằng người ta không bao giờ có thể tự cứu chính mình. Đây là chỗ chúng ta cần phải nhận ra để được cứu rỗi khi tin vào Chúa.
 Điều đầu tiên, để được cứu rỗi, chúng ta phải chống lại sự ác nhởn nhơ trước mặt. Khi dám mơ ước một thế giới thuần thiện thì con người cần mở rộng lòng ra: “hứng theo thần trí” để khát vọng yêu thương, hiệp nhất; nhận ra sự bế tắc của cuộc đời này để tin mình cần được cứu khỏi sự ác của tính “hứng theo xác thịt” đã chi phối đời mình.

Đức tin

Đức tin có hai nội dung là gắn bó với Chúa và chấp nhận mọi điều Chúa dạy. Tin vào Chúa là tin mình cần được cứu, tin vào chính Chúa. Khi đón nhận một con người, chúng ta chấp nhận hết bản tính của người đó dù có thế nào chăng nữa, ta vẫn đón nhận hết. Đó là đi vào một cuộc phiêu lưu, đón nhận tất cả những gì có thể xảy ra. Đây mới đúng là tin. Tương tự như vậy, tin vào Chúa là phải đi vào cuộc phiêu lưu với Chúa. Bởi vì, chỉ có dám tin từ ngày này sang tháng nọ thì mới phát hiện những điều hay qua lời Chúa dạy theo thời gian, và mới thấy hiệu quả của Đức Tin xảy ra trong cuộc đời mình.

Nếu chúng ta tin mà không gắn bó với Chúa, chỉ chào đón cái này mà loại bỏ cái kia theo ý riêng mình, thì đó là niềm tin theo kiểu “giáo phái”, chỉ lựa chọn một số trong những điều Chúa dạy, không đi vào cuộc chơi được, không phải là niềm tin đích thực.

Một mẫu gương cho niềm tin đích thực chính là Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Khi ngài bị bắt và bị giam giữ tại chính giáo phận mà trước đây ngài dẫn dắt, ngài cảm thấy mọi công việc bị bế tắc khi chọn công việc của Chúa giao, nhưng rồi ngài nghiệm ra một điều như là Chúa nói với ngài: “Con chọn Thầy hay chọn công việc của Thầy?” Và mấu chốt, điểm bừng tỉnh làm cho ngài đi vào con đường thánh thiện chính là ngài đã chọn Chúa, tin vào Chúa cho dù con đường Chúa dẫn ngài đi vào lúc đó, là nơi ngục tù.

Đức Tin Kitô giáo

Theo Công đồng Vatican II, sống Đức Tin là sống đời mình như một lịch sử cứu độ. Lịch sử ơn cứu độ là một hoa trái đặc biệt của truyền thống Do Thái giáo, nơi Chúa dẫn dắt Dân riêng của Ngài qua nhiều thế hệ, cho đến khi Chúa Giêsu nhập thể làm người cứu độ nhân loại. Ý nghĩa của đức tin thiết yếu là sống đời mình như một lịch sử cứu độ, tức là phải sẵn sàng phiêu lưu để Chúa dẫn dắt cuộc đời của mình.

Đức Tin trong đời thường

Đức Tin trong đời thường đòi buộc người ta dám phiêu lưu. Và dấu chỉ để ta nhận ra có Chúa vẫn đang đồng hành với mình chính là chúng ta vẫn còn niềm hy vọng trong đời sống, và thấy được bề dày trong tương quan của mình với Chúa mỗi ngày càng dày lên dù trong gian khổ. Đó thực sự là ý nghĩa đức tin trong đời sống hằng ngày.

Tạm kết

Qua bài chia sẻ rất sâu sắc và thực tế, Cha Giuse đã giúp các tham dự viên không chỉ nhận ra các lãnh vực của lòng Tin mà còn hiểu rõ các phẩm chất của lòng Tin ấy. Từ đó, ngài đã dẫn đưa khán thính giả đến với giáo lý quan trọng của Hội Thánh Công giáo, đó là “Con người chỉ có thể được cứu rỗi nhờ lòng Tin”. Thật vậy, Thánh Phaolô Tông đồ đã khẳng định: “Chính do ân sủng và nhờ lòng Tin mà anh em được cứu độ” (Ep 2,8). Với niềm xác tín đó, kể từ nay, chúng ta sẽ quyết tâm chọn Chúa, tin vào Chúa, và sống với Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời, cho dù phải gặp muôn vàn gian lao, thử thách. Được như thế là chúng ta đang: “Sống Đức Tin giữa đời thường.”

Tạ Ân Phúc

............................................................................................................................................................


KINH TIN KÍNH CỦA CON QUA CUỘC SỐNG
-Năm Đức Tin- và Trọn Cuộc Đời-

Tin là khi làm dấu thánh giá tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi: Cha-Con-Thánh Thần.

Tin là chấp nhận- tuân phục giáo lý Hội Thánh giảng dạy- yêu mến và sống thực hành.

Tin là khôn ngoan- can đảm- dấn thân- hy sinh- phục vụ vô điều kiện.

Tin là bước vào mầu nhiệm mà người tin mới cảm nếm Chúa Thiện Hảo thế nào.

Tin là cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm nhưng không kém phần kỳ thú qua những ân sủng của Chúa thật bất ngờ và vĩ đại.

Tin là khám phá nơi mọi người- mọi vật- sự quan phòng yêu thương qua Chúa Thánh Thần.

Tin là nhận ra tất cả đều là Hồng Ân đến từ Chúa qua thanh luyện hay hạnh phúc.
Tin là sống 24/24 với tâm tình của Chúa trong không gian và thời gian.

Tin là bước đi trong thung lũng tối tăm và nước mắt, nhưng tâm hồn vẫn thấp lên ánh lửa hy vọng và cậy trông.

Tin là nhận ra những thực tại vô hình nơi hữu hình và ngược lại.

Tin là sống tâm tình thờ phượng: yêu mến- hiến dâng- hiệp thông- thanh luyện suốt cuộc đời.

TIN: TÔI TIN- TÔI TIN- TÔI TIN

Tất cả Lời Chúa qua Kinh Thánh- Giáo Hội và chính tôi qua mầu nhiệm trong đau khổ, thử thách nghiệt ngã của cuộc đời.

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh: Cha- Con- Thánh Thần

Con xin tín thác nơi Chúa: Hôm qua- Hôm nay- Tương lai- mãi mãi
Amen

Rosa Minh Thu

........................................................................................................................... 


PHẦN I: GIÁO LÝ NĂM ĐỨC TIN
---------------------

Chủ đề 1:
ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ,
ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA


Bài 1:    ĐỨC TIN MỜI GỌI CHÚNG TA LÊN ĐƯỜNG VÀ GẮN BÓ VỚI CHÚA GIÊSU

1. Lời Chúa

“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68).

2. Giải thích
Đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, là một nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa tuôn ban. Để có được đức tin nầy, cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần. Vì vậy, tin trước hết là gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa, và tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý được Thiên Chúa mặc khải (x. GLHTCG số 153 và 150).
Đối với Kitô hữu, tin vào Thiên Chúa không thể tách rời khỏi việc tin vào Đấng Ngài đã sai đến, tức là Con chí ái của Ngài, đẹp lòng Ngài mọi đàng. Thiên Chúa đã dạy chúng ta phải nghe lời Con của Ngài. Chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Người: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1). Chúng ta có thể tin, gắn bó vào Chúa Giêsu Kitô, vì chính Người là Thiên Chúa, là Ngôi Lời nhập thể. Bởi vì Người “đã thấy Chúa Cha” (Ga 6,46), nên chỉ một mình Người biết Chúa Cha và có thẩm quyền mặc khải Chúa Cha cho chúng ta (GLHTCG 151).
Như Phêrô, đấng đã tuyên xưng niềm tin và gắn bó với Chúa Giêsu trọn cả con người, nghĩa là với cả tự do và trí khôn, thì đức tin của người Kitô hữu thật sự là một hành vi nhân linh. Vì thế, tin vào Thiên Chúa, vào Chúa Giêsu và gắn bó với những chân lý do Ngài mặc khải không đi ngược với tự do và trí khôn con người. Trong đức tin, lý trí và ý chí con người cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa: “Tin là một hành vi của lý trí chấp nhận chân lý của Thiên Chúa theo lệnh của ý chí được Thiên Chúa tác động nhờ ân sủng” (GLHTCG số 154-155). Do đó, đời Kitô hữu là một cuộc sống gắn bó với Chúa Giêsu, Đấng mặc khải Chúa Cha “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). “Chúng ta đến từ Chúa Kitô, sống trong Chúa Kitô và trở về với Chúa Kitô” (Đức Phaolô VI).
3. Bài học
1/.    H:    Đức tin là gì?
        T:     Đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, là một nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa tuôn ban cho nguời Kitô hữu.
2/.    H:    Phải hiểu đức tin như thế nào?
        T:     Tin là gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa. đồng thời là chấp nhận tất cả chân lý được Thiên Chúa mặc khải.
3/.    H:    Vì sao tin là gắn bó với Thiên Chúa, người Kitô hữu lại còn phải gắn bó với Chúa Giêsu?
        T:     Vì Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Ngôi Lời nhập thể, là Con chí ái của Chúa Cha, đẹp lòng Chúa Cha. Chính Người đã thấy Chúa Cha, nên chỉ mình Người biết Chúa Cha và mặc khải Chúa Cha cho chúng ta.
4/.    H:    Trong đức tin, yếu tố tự do và trí khôn con người có cần thiết không?
        T:     Cần thiết, vì tin là một hành vi của lý trí chấp nhận chân lý của Thiên Chúa nhờ tác động của ân sủng.

4. Quyết tâm thực hành

Thường xuyên thưa với Chúa: “Lạy Chúa con tin, xin trợ giúp lòng tin yếu kém của con”.


Bài 2:          ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH
TRONG ĐỨC ÁI

1. Lời Chúa

“Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17).
2. Giải thích
Như đã nói trong bài 1, để có được đức tin nầy, cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa, giúp cho người tín hữu tin vào một Thiên Chúa, tin vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Một khi tin vào Chúa Giêsu Kitô, đức tin nầy, nhờ Chúa Thánh Thần tác động làm trổ sinh những lời ngợi khen và cảm tạ vì các ơn lành đã lãnh được do Chúa ban; thêm vào đó là ý thức mạnh mẽ về đức công bình và tình yêu chân thành đối với tha nhân (GLHTCG số 153).
Đức tin sống động ấy giúp người tín hữu sống công bình, một hình thức của bác ái. Sống công bình là biết quyền sở hữu của tha nhân trên tài sản của họ. Sống công bình là biết tôn trọng của cải của tha nhân, vì thế cần phải huấn luyện lương tâm ngay thẳng để có thể thực thi công bình trong đời Kitô hữu.
 Đức tin sống động ấy làm phát sinh những sáng kiến sống bác ái với tha nhân như quảng đại giúp đỡ tha nhân cách thiết thực, nhất là xoa dịu sự cùng khổ tinh thần và thể xác; và trong gia đình, đức tin sống động nầy sẽ thúc đẩy bậc làm cha làm mẹ chuyên tâm giáo dục con cái trở thành những con người có nhân bản và có đức tin.  
Gương mẫu của người Kitô hữu trong điểm nầy chính là Đức Maria. Mẹ đã sử dụng đức tin sống động để sống đức ái trọn vẹn. Đức tin của Mẹ đã thúc đẩy Mẹ lên đường thăm viếng bà chị họ và giúp đỡ bà, đã giúp đỡ gia đình ở Cana khỏi mất mặt; đó là những hành vi bác ái Mẹ thực hiện nhờ đức tin sống động của Mẹ. Ngoài ra, trong cuộc sống gia đình tại Na-da-rét, đức tin sống động ấy chiếu toả ra trong ngôi nhà nầy, vì thế nơi đây đức ái được hỗ trợ bằng đức tin trở thành quy luật sống và nêu gương cho mọi gia đình trên thế giới.
3. Bài học
1/.    H:    Nhờ đâu người ta biết người Kitô hữu có đức tin sống động?
        T:     Nhờ đức ái được thể hiện trong cuộc sống.
2/.    H:    Đức ái nầy được thể hiện như thế nào?
        T:     Trước hết bằng đời sống công bình đối với tha nhân.
3/.    H:    Ngoài ra, đâu là những lãnh vực bác ái cần quan tâm?
        T:     Đó là giúp đỡ tha nhân cách thiết thực, đặc biệt những người đau khổ trong tinh thần và thể xác.
4/.    H:    Đâu là gương mẫu của đức tin sống động?
        T:     Đức Maria là gương mẫu của đức tin sống động dẫn đến đức ái trọn vẹn.

4. Quyết tâm thực hành

Để biểu tỏ đức tin sống động, mỗi ngày thực hiện một việc bác ái như cầu nguyện, giúp đỡ vật chất, thăm viếng tha nhân, hoặc việc bác ái bằng nụ cười, cái bắt tay.


Bài 3:    ĐỨC TIN BẢO ĐẢM ĐIỀU TA HY VỌNG

1. Lời Chúa
“Hãy mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1 Tx 5,8).
“Đức tin bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1).
2. Giải thích
Đức tin, đức cậy và đức mến là ba nhân đức đối thần, nghĩa là các nhân đức nầy có đối tượng chính là Thiên Chúa, giúp người Kitô hữu sống trong tương quan với Ba Ngôi Chí Thánh. Các nhân đức nầy được Thiên Chúa phú bẩm trong linh hồn các Kitô hữu, giúp họ có khả năng hành động như con cái của Ngài, và đáng hưởng sự sống vĩnh cửu. Các nhân đức nầy là bảo chứng cho sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Thần trong các năng lực của con người (GLHTCG, số 1812-1813).
 Đức tin nâng đỡ đức cậy vì nhờ đó người Kitô hữu khao khát Nước Trời và đời sống vĩnh cửu là vinh phúc của họ, khi đặt lòng tin tưởng vào lời hứa của Chúa Giêsu Kitô và cậy dựa vào sự trợ giúp ân sủng của Chúa Thánh Thần, chứ không dựa vào sức mạnh của riêng ta. 
Đức cậy đáp ứng khát vọng hưởng vinh phúc mà Thiên Chúa đã đặt trong trái tim mỗi người, đảm nhận những mong đợi đang gợi hứng cho các hoạt động của con người, thanh luyện những mong đợi đó để quy hướng chúng về Nước Trời, bảo vệ khỏi sự nản chí của tâm hồn, nâng đỡ khi bị bỏ rơi, mở rộng trái tim bằng sự mong đợi vinh phúc vĩnh cửu. Sự thúc đẩy của đức cậy gìn giữ người Kitô hữu khỏi tính ích kỷ và đưa họ đến với vinh phúc của đức mến (GLHTCG số 1818).
Nguồn gốc và mẫu gương của lòng trông cậy đó là lòng trông cậy của tổ phụ Áp-ra-ham, người đã mãn nguyện với các lời hứa của Thiên Chúa nơi I-sa-ac, và đã được thanh luyện nhờ sự thử thách là cuộc hiến tế. “Ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc” (Rm 4,18) (GLHTCG số 1819).
Từ lúc khởi đầu việc giảng dạy của Chúa Giêsu, đức cậy Kitô giáo được khai triển trong lời loan báo các mối phúc. Các mối phúc nâng niềm hy vọng của người Kitô hữu hướng lên trời, như lên miền Đất hứa mới; vạch đường tới đó qua những thử thách đang chờ đợi các môn đệ của Chúa Giêsu. Nhưng nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô và của cuộc khổ nạn của Người, Thiên Chúa gìn giữ người Kitô hữu trong niềm hy vọng “không phải thất vọng” (Rm 5,5). Người Kitô hữu có niềm hy vọng “như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn”, thả sâu vào “nơi Chúa Giêsu đã vào như người tiền phong mở đường cho chúng ta” (Dt 6,19-20) (GLHTCG 1820).
Đức cậy cũng là vũ khí bảo vệ người Kitô hữu trong cuộc chiến đấu để được cứu độ: “Hãy mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1 Tx 5,8). Đức cậy mang lại cho người Kitô hữu niềm vui ngay cả trong thử thách: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân” (Rm 12,12). Đức cậy được diễn tả và nuôi dưỡng trong kinh nguyện, nhất là trong Lời Kinh của Chúa, là bản toát yếu của tất cả những gì mà đức cậy khiến người kitô hữu ước ao. Với đức cậy, Hội Thánh cầu nguyện cho “mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,4) (GLHTCG số 1820).
3. Bài học
1/.    H:    Đức cậy là gì?
        T:     Là một trong ba nhân đức đối thần, có đối tượng chính là Thiên Chúa, giúp người Kitô hữu sống trong tương quan với Ba Ngôi Chí thánh.
2/.    H:    Mục đích của các nhân đức nầy là gì?
        T:     Các nhân đức nầy giúp cho người Kitô hữu có khả năng hành động như con cái của Thiên Chúa và đáng hưởng sự sống đời đời.
3/.    H:    Đức tin nâng đỡ đức cậy như thế nào?
        T:     Đức tin giúp cho người Kitô hữu khao khát Nước Trời và sự sống vĩnh cửu là vinh phúc của họ.
4/.    H:    Trong Tân Ước, đức cậy được nói đến ở đâu?
        T:     Được loan báo qua các mối phúc, là niềm hy vọng của người Kitô hữu hướng về trời, miền Đất hứa mới của họ.
4. Quyết tâm thực hành
Sống thế nào để luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của chúng ta, nhưng phải trả lời cách hiền hòa và với sự kính trọng (x. 1 Pr 3,15).


Bài 4:              SỐNG ĐỨC TIN CÁ NHÂN
TRONG ĐỨC TIN HỘI THÁNH

1. Lời Chúa
“Như thể được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giêsu Kitô là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,1-2a).
2. Giải thích
Đức tin là một hành vi cá nhân, là lời đáp lại cách tự nguyện của người Kitô hữu trước lời mời gọi của Thiên Chúa; nhưng đức tin không phải là một hành vi đơn độc. Không ai có thể tin một mình, cũng như không ai có thể sống một mình. Không ai tự ban đức tin cho mình, cũng như không ai tự ban sự sống cho mình (GLHTCG 166).
Người Kitô hữu nhận được đức tin từ những kẻ khác và phải thông truyền đức tin ấy cho kẻ khác. Mỗi người tin như là một mắt xích trong một xâu chuỗi rộng lớn các kẻ tin. Tôi không thể tin nếu không được nâng đỡ bằng đức tin của những người khác, và bằng đức tin của tôi, tôi góp phần vào việc nâng đỡ đức tin của những người khác (GLHTCG số 166).
“Tôi tin”: đây là đức tin của Hội Thánh, được mỗi tín hữu tuyên xưng, đặc biệt lúc chịu phép Rửa Tội. “Chúng tôi tin”: đây là đức tin của Hội Thánh, được cộng đoàn tín hữu cử hành phụng vụ tuyên xưng. “Tôi tin”: đây cũng là Hội Thánh, Mẹ chúng ta, đang lấy đức tin của mình mà đáp lời Thiên Chúa, và dạy chúng ta nói: “Tôi tin”, “chúng tôi tin” (GLHTCG số 167).
Trước hết, Hội Thánh tin, và như vậy hướng dẫn, nuôi dưỡng và nâng đỡ đức tin của mỗi người Kitô hữu. Hội Thánh tuyên xưng Chúa ở khắp nơi, rồi cùng với Hội Thánh và trong Hội Thánh, người Kitô hữu được thúc đẩy và hướng dẫn để người Kitô hữu cùng tuyên xưng: “Tôi tin”, “chúng tôi tin” (GLHTCG số 168).
Chính từ Hội Thánh mà người Kitô hữu lãnh nhận đức tin và đời sống mới trong Chúa Giêsu Kitô nhờ bí tích Rửa Tội. Ơn cứu độ đến từ một mình Thiên Chúa, nhưng bởi vì người Kitô hữu lãnh nhận đời sống đức tin nhờ Hội Thánh, nên Hội Thánh là mẹ của người Kitô hữu. Người Kitô hữu tin Hội Thánh như người mẹ cho người Kitô hữu được tái sinh, chứ người Kitô hữu không tin vào Hội Thánh như là tác giả của ơn cứu độ. Bởi vì là mẹ của người Kitô hữu, nên Hội Thánh cũng là người giáo dục đức tin của người Kitô hữu (GLHTCG số 168-169).
Người Kitô hữu sống đức tin giữa lòng cộng đoàn địa phương nhờ lãnh nhận các bí tích của Hội Thánh để thờ phượng Thiên Chúa, được đức tin của cộng đoàn nâng đỡ trong lúc gặp những gian nan thử thách, được đức tin của cộng đoàn hướng dẫn để gặp gỡ Thiên Chúa, được đức tin của cộng đoàn giáo dục để hiểu biết và mến yêu Thiên Chúa hơn. Ngoài ra, mỗi người tín hữu cũng nhận ra trách nhiệm của mình trong việc nâng đỡ, giáo dục và hướng dẫn đức tin của các Kitô hữu khác. Như thế, nhờ đức tin chỉ bảo, người Kitô hữu nhận ra tinh thần đồng trách nhiệm và liên đới với nhau trong việc xây dựng đời sống đức tin của cộng đoàn địa phương.
3. Bài học
1/.    H:    Hành vi đức tin là cá nhân, nhưng có đơn độc không?
        T:     Không, vì không ai có thể tin một mình nếu không được nâng đỡ bằng đức tin của những người khác trong Hội Thánh.
2/.    H:    Đâu là đức tin của Hội Thánh?
        T:     Đức tin của Hội Thánh được thể hiện qua tiếng “tôi tin” trong bí tích Rửa tội và trong việc cử hành phụng vụ, “chúng tôi tin”.
3/.    H:    Hội Thánh có trách nhiệm nào trên đức tin của người Kitô hữu?
        T:     Hội Thánh hướng dẫn, nuôi dưỡng và nâng đỡ đức tin của người Kitô hữu. Ngoài ra, Hội Thánh với tư cách là Mẹ, nên có bổn phận giáo dục đức tin cho con cái.
4/.    H:    Giữa lòng cộng đoàn, người Kitô hữu sống đức tin thế nào?
        T:     Người kitô hữu được lớn lên trong đức tin nhờ lãnh nhận các bí tích, được cộng đoàn cầu nguyện, nâng đỡ, hướng dẫn để gặp gỡ Thiên Chúa, đồng thời nhận ra bổn phận của mình đối với cộng đoàn trong việc sống đức tin.
4. Quyết tâm thực hành
Nhận ra cộng đoàn mình đang sống là một cộng đoàn những người tin, nên phải cầu nguyện và làm gương tốt để nêu gương cho những người chưa nhận biết Chúa đang sống chung quanh mình.


Chủ đề 2:
HỘI THÁNH
VÀ SỐNG MẦU NHIỆM HỘI THÁNH

Bài 5:          SỐNG THUỘC TÍNH DUY NHẤT
CỦA HỘI THÁNH

1. Lời Chúa
“Để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17,21).
2. Giải thích
Trong kinh Tin kính (Tín Biểu) người Kitô hữu tuyên xưng Hội Thánh Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền. Bốn đặc tính nầy nối kết với nhau một cách không thể tách biệt, và nêu rõ những nét căn bản và sứ vụ của Hội Thánh. Hội Thánh không tự mình có các thuộc tính ấy, nhưng Chúa Giêsu Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần đã làm cho Hội Thánh được Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền và cũng chính Người kêu gọi Hội Thánh hãy thực hiện từng điều trong các đặc tính đó (GLHTCG số 811).
Hội Thánh Duy Nhất là vì nguồn gốc của mình: “Khuôn mẫu mực tối cao và nguyên lý của mầu nhiệm nầy, là sự hiệp nhất trong Ba Ngôi của Thiên Chúa Duy Nhất là Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần.
Hội Thánh Duy Nhất vì Đấng Sáng Lập của mình: “Quả thật, chính Chúa Con nhập thể... đã nhờ cây thập giá của mình mà giao hoà mọi người với Thiên Chúa... tái lập sự hợp nhất mọi người trong một dân tộc và một thân thể.
Hội Thánh Duy Nhất là vì “linh hồn” của mình: “Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong các tín hữu, đầy tràn và điều khiển toàn Hội Thánh, làm cho các Kitô hữu hiệp thông với nhau cách kỳ diệu và kết hợp tất cả trong Chúa Giêsu Kitô cách rất mật thiết, cho nên Ngài là nguyên lý của sự hợp nhất của Hội Thánh. Vì vậy, theo bản chất, Hội Thánh là Duy Nhất (GLHTCG số 813).
Tuy nhiên, qua dòng thời gian, tội lỗi và những hậu quả nặng nề của nó không ngừng đe dọa hồng ân là sự hợp nhất, vì vậy thánh Phaolô đã khuyên phải “duy trì sự hợp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau” (Ep 4,3) (GLHTCG số 814).
Chính vì thế, toàn thể Hội Thánh, người Kitô hữu cũng như mục tử, đều có bổn phận quan tâm đến việc tái lập sự hợp nhất; tuy nhiên ước nguyện nầy vượt quá sức lực và khả năng loài người, vì thế Hội Thánh đặt hết hy vọng “vào lời Chúa Giêsu Kitô cầu nguyện cho Hội Thánh, vào tình thương của Chúa Cha đối với Hội Thánh và quyền năng của Chúa Thánh Thần” (GLHTCG 821).
3. Bài học
1/.    H:    Hội Thánh có những thuộc tính nào?
        T:     Hội Thánh có bốn thuộc tính là Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền.
2/.    H:    Bốn thuộc tính nầy tương quan với nhau như thế nào?
        T:     Bốn thuộc tính nầy nối kết với nhau không tách rời và nói lên những nét căn bản và sứ vụ của Hội Thánh.
3/.    H:   Vì sao Hội Thánh được gọi là Duy Nhất?
        T:     Hội Thánh được gọi là Duy Nhất nhờ xuất phát từ Ba Ngôi Thiên Chúa duy nhất: Chúa Cha là nguồn gốc, Chúa Con là Đấng Sáng lập và Chúa Thánh Thần là linh hồn của Hội Thánh.
4/.    H:   Hội Thánh phải làm gì để duy trì sự hợp nhất?
        T:     Hội Thánh phải quan tâm đến việc tái lập và cầu nguyện cho sự hiệp nhất vì chỉ có Thiên Chúa mới làm cho Hội Thánh được Duy Nhất.
4. Quyết tâm thực hành
Phải cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong giáo xứ và nhìn tha nhân với những điểm tương đồng hơn là khác biệt để xây dựng sự hiệp nhất.


Bài 6:        SỐNG THUỘC TÍNH THÁNH THIỆN
CỦA HỘI THÁNH

1. Lời Chúa
“Trong Chúa Giêsu Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện nhờ tình thương của Người” (Ep 1,4).
2. Giải thích
Thánh Công Đồng Vaticanô II, trong Hiến Chế về Hội Thánh, số 39 đã viết: “Chúng tôi tin Hội Thánh, một mầu nhiệm được Thánh Công Đồng trình bày, có tính cách Thánh Thiện, bất khả khuyết. Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, được ca tụng là “Đấng Thánh Duy Nhất”, đã yêu dấu Hội Thánh như Hiền Thê của mình và đã  tự hiến vì Hội Thánh, để thánh hoá Hội Thánh, và kết hợp Hội Thánh với mình như Thân Thể của mình, và ban dư đầy hồng ân của Chúa Thánh Thần để làm vinh danh Thiên Chúa”. Vì vậy, Hội Thánh là “dân Thánh của Thiên Chúa” và các phần tử của Hội Thánh được gọi là “các thánh” (GLHTCG số 823)
Nhờ kết hợp với Chúa Giêsu Kitô, Hội Thánh có khả năng thánh hoá: “Tất cả các công việc của Hội Thánh đều hướng về mục đích là thánh hoá con người trong Chúa Giêsu Kitô và tôn vinh Thiên Chúa”. Hội Thánh được giao cho “đầy đủ các phương tiện cứu độ”, chính vì thế, trong Hội Thánh chúng ta đạt đến sự thánh thiện nhờ ân sủng của Thiên Chúa (GLHTCG số 824).
Đức mến là linh hồn của sự thánh thiện mà mọi tín hữu được kêu gọi đạt tới. Đức mến hướng dẫn, hình thành và đưa tới mục đích, tất cả các phương tiện thánh hoá (GLHTCG số 826).
Mặc dù Hội Thánh là Thánh Thiện, nhưng luôn mang trong  lòng mình những kẻ tội lỗi, vì thế Hội Thánh luôn tiếp tục việc sám hối và canh tân. Tất cả các chi thể của Hội Thánh, kể cả các thừa tác viên, đều phải nhận mình là kẻ tội lỗi. Như vậy, Hội Thánh quy tụ những người tội lỗi đã được lãnh nhận ơn cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, nhưng còn đang trên đường thánh hoá (GLHTCG số 827).
3. Bài học
1/.    H:    Vì sao Hội Thánh được gọi là Thánh Thiện?
        T:     Vì Thiên Chúa chí thánh sáng lập Hội Thánh; Chúa Giêsu Kitô đã tự hiến để thánh hoá và Thần Khí thánh thiện làm cho Hội Thánh được sống.
2/.    H:    Bởi đâu Hội Thánh có khả năng thánh hoá?
        T:     Nhờ kết hợp với Chúa Giêsu Kitô, mọi hoạt động của Hội Thánh đều hướng về mục đích là thánh hoá con người và tôn vinh Thiên Chúa.
3/.    H:  Đâu là linh hồn của sự thánh thiện trong Hội Thánh?
        T:     Đó là đức mến, vì đức mến là cùng đích của các phương tiện thánh hoá.
4/.    H:    Hội Thánh là Thánh Thiện, nhưng vẫn đầy tội lỗi, vậy Hội Thánh phải làm gì?
        T:     Hội Thánh luôn tiếp tục việc sám hối và canh tân để trở nên một “Hội Thánh tinh tuyền và thánh thiện”.
4. Quyết tâm thực hành
“Hỡi các kitô hữu, hãy ý thức về phẩm giá của bạn” (Thánh Lêô Cả, Giáo Hoàng).
Bài 7:      SỐNG THUỘC TÍNH CÔNG GIÁO
CỦA HỘI THÁNH

1. Lời Chúa

“Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái” (Ep 4,16).
2. Giải thích
Công Đồng Vaticanô II đã minh định lại ý nghĩa của cụm từ “Hội Thánh Công Giáo” theo đó, tất cả mọi người đều được kêu gọi trở thành Dân Thiên Chúa và Hội Thánh là phương tiện cứu rỗi cần thiết mà Chúa Giêsu Kitô đã thiết lập. Những ai muốn được dự phần vào sự sống đời đời cần phải thuộc về Hội Thánh qua những cách thế khác nhau.
Hội Thánh là Công Giáo theo hai nghĩa:
- Hội Thánh là Công Giáo vì trong Hội Thánh có Chúa Giêsu Kitô hiện diện. “Ở đâu có Chúa Giêsu Kitô, ở đó có Hội Thánh Công Giáo” (Ignatiô Antiôkia). Nơi Hội Thánh, tồn tại sự sung mãn của Thân Thể Chúa Giêsu Kitô, được kết hợp với Đầu của mình, điều đó có nghĩa là Hội Thánh đã nhận được từ Chúa Giêsu Kitô đầy đủ các phương tiện cứu rỗi. Theo ý nghĩa căn bản nầy, Hội Thánh đã là Công Giáo từ ngày lễ Ngũ Tuần và mãi mãi sẽ là Công Giáo cho đến ngày Chúa quang lâm (GLHTCG số 830).
- Hội Thánh là Công Giáo bởi vì Hội Thánh được Chúa Giêsu Kitô sai đến với toàn thể nhân loại. “Mọi người được kêu gọi vào dân mới của Thiên Chúa. Vì thế, dân nầy, vẫn là một dân duy nhất, phải được mở rộng khắp trần gian và qua mọi thế hệ, để kế hoạch của thánh ý Thiên Chúa được hoàn thành... Đặc tính phổ quát nầy, làm vinh dự cho Dân Thiên Chúa, là một hồng ân của chính Chúa, nhờ đó Hội Thánh Công Giáo, một cách hữu hiệu và liên lỉ, hướng tới việc quy tụ toàn thể nhân loại cùng mọi điều thiện hảo của họ, dưới quyền Chúa Giêsu Kitô là Đầu, trong sự hợp nhất của Thần Khí của Người” (LG số 13) (GLHTCG số 831).
Mỗi Hội Thánh địa phương cũng là “Công Giáo”. Hội thánh Chúa Giêsu Kitô  thực sự hiện diện trong mọi cộng đoàn hợp pháp các Kitô hữu ở các địa phương, các cộng đoàn gắn bó với các mục tử của mình và trong Tân Ước được gọi là các Hội Thánh... Trong các cộng đoàn đó, các Kitô hữu được quy tụ nhờ việc rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, và mầu nhiệm Bữa Tiệc của Chúa được cử hành... Trong các cộng đoàn đó, tuy thường là nhỏ bé và nghèo nàn hay sống tản mát, vẫn có Chúa Giêsu Kitô hiện diện nhờ sức mạnh của Người mà Hội Thánh Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền được kết hợp (GLHTCG số 832-834).
Được tháp nhập hoàn toàn vào cộng đoàn Hội Thánh, là những ai có Thần Khí của Chúa Giêsu Kitô, chấp nhận cơ cấu trọn vẹn của Hội Thánh và tất cả các phương tiện cứu độ đã được thiết lập trong Hội Thánh, và được kết hợp trong cơ cấu hữu hình của Hội Thánh với Chúa Giêsu Kitô, Đấng hướng dẫn Hội Thánh nhờ Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục, bằng những mối dây là việc tuyên xưng đức tin, là các bí tích, là sự cai quản và hiệp thông trong Hội Thánh. Những người như thế thuộc về Hội Thánh Công Giáo (GLHTCG số 836).
Do những đòi hỏi sâu sắc của tính Công Giáo, vâng theo lệnh truyền của Đấng Sáng Lập của mình, Hội Thánh cố gắng loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi người, và lệnh truyền giáo nầy bắt nguồn từ tình yêu vĩnh cửu của Ba Ngôi Chí Thánh; mục đích tối hậu của việc truyền giáo là làm cho loài người được tham dự vào sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Thần Khí tình yêu của chính các Ngài. Hội Thánh luôn nhận lấy bổn phận và sức mạnh thúc đẩy việc truyền giáo của mình từ chính tình yêu của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người (GLHTCG 849-851).

3. Bài học

1/.    H:    “Hội Thánh Công Giáo” nghĩa là gì?
        T:     Là mọi người đều được kêu mời trở thành Dân Thiên Chúa và Hội Thánh là phương tiện cứu rỗi cần thiết mà Chúa Giêsu Kitô đã thiết lập.
2/.    H:    Hội Thánh là Công Giáo theo nghĩa nào?
        T:     Theo hai nghĩa nầy:
                - Một là vì nơi Hội Thánh có Chúa Giêsu Kitô hiện diện và nhận được từ nơi Người đầy đủ các phương tiện cứu rỗi;
                - Hai là vì Hội Thánh được Chúa Giêsu Kitô sai đến với toàn thể nhân loại.
3/.    H:    Hội Thánh địa phương có là Công Giáo không?
        T:     Có, vì trong các Hội Thánh địa phương, các Kitô hữu được quy tụ nhờ việc rao giảng Tin Mừng và cử hành Bữa Tiệc của Chúa. Đồng thời vẫn có Chúa Giêsu Kitô hiện diện và nhờ sức mạnh của Người mà Hội Thánh Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền được kết hợp.
4/.    H:    Tính Công Giáo của Hội Thánh đòi hỏi điều gì?
        T:     Tính Công Giáo của Hội Thánh đòi hỏi phải truyền giáo, vì đó là động lực xuất phát từ tình yêu vĩnh cửu của Ba Ngôi Chí Thánh và vì Thiên Chúa muốn cho mọi người nhận biết chân lý và được ơn cứu độ.
4. Quyết tâm thực hành
Mỗi gia đình hy sinh và cầu nguyện cho một gia đình lương dân để họ được sát nhập vào Dân Thiên Chúa.


Bài 8:      SỐNG THUỘC TÍNH TÔNG TRUYỀN
CỦA HỘI THÁNH

1. Lời Chúa
“Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Chúa Giêsu Kitô”(Ep 2,19-20).

2. Giải thích
Hội Thánh có đặc tính Tông Truyền vì được đặt nền trên các Tông Đồ, và điều đó được hiểu theo ba nghĩa:
- Hội Thánh đã và đang được xây dựng trên “nền móng là các Tông Đồ”, là những chứng nhân được Chúa Giêsu Kitô tuyển chọn và sai đi,
- Với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ngự trong Hội Thánh, Hội Thánh gìn giữ và lưu truyền giáo huấn, kho tàng quý báu, những lời lành thánh nghe được từ các Tông Đồ, 
- Hội Thánh được tiếp tục giảng dạy, thánh hoá và hướng dẫn bởi các Tông Đồ cho đến khi Chúa Giêsu Kitô trở lại nhờ những vị kế nhiệm các ngài trong nhiệm vụ mục tử: Giám mục đoàn, với sự trợ giúp của các linh mục, hợp nhất với Đấng kế nhiệm Thánh Phêrô là mục tử tối cao của Hội Thánh (GLHTCG số 857).
Toàn thể Hội Thánh có thuộc tính Tông Truyền vì, nhờ các vị kế nhiệm thánh Phêrô và các Tông Đồ, Hội Thánh vẫn giữ nguyên nguồn gốc của mình trong sự hiệp thông đức tin và sự sống. Hội Thánh còn có thuộc tính Tông Truyền vì “được sai đi” khắp trần gian; tất cả các chi thể của Hội Thánh tuy bằng những cách khác nhau, đều tham dự vào tính chất “được sai đi” này.  Quả vậy, ơn gọi Kitô hữu, tự bản chất, cũng là ơn gọi làm việc tông đồ. Được gọi là “việc tông đồ” mọi hoạt động của Nhiệm Thể” nhằm làm cho Nước Chúa Giêsu Kitô ở mọi nơi trên trần thế được rộng mở (GLHTCG số 863).  

3. Bài học
1/.    H:    Hội Thánh Tông Truyền là gì?
        T:     Là Hội Thánh được xây dựng trên nền móng vững chắc là mười hai Tông đồ của Con Chiên, những chứng nhân được Chúa Giêsu tuyển chọn và sai đi.
2/.    H:    Được gọi là Tông Truyền, Hội Thánh có bổn   phận nào?
        T:     Hội Thánh có bổn phận bảo tồn và lưu truyền giáo huấn của các Tông Đồ.
3/.    H:    Trong Hội Thánh, những ai có bổn phận đặc biệt để bảo tồn và lưu truyền giáo huấn nầy?
        T:     Là Giám Mục đoàn, những người kế nhiệm các Tông Đồ trong nhiệm vụ mục tử, cùng với sự trợ giúp của các linh mục, hợp nhất với Đấng kế nhiệm Thánh Phêrô, mục tử tối cao của Hội Thánh.
4/.    H:    Vì sao Hội Thánh có thuộc tính Tông Truyền?
        T:     Vì nhờ các vị kế nhiệm Thánh Phêrô và các Tông Đồ nên Hội Thánh vẫn bảo toàn nguồn gốc đức tin Tông Truyền của mình.
5/.    H:    Hội Thánh còn tìm đâu ra thuộc tính Tông Truyền của mình nữa?
        T:     Hội Thánh còn có thuộc tính Tông Truyền vì “được sai đi” khắp trần gian, và mọi chi thể của Hội Thánh đều tham dự vào tính chất “được sai đi” này.

4. Quyết tâm thực hành

Ý thức thuộc tính Tông Truyền, mỗi kitô hữu quyết tâm sống hiệp thông tích cực với các kitô hữu khác trong cùng một giáo xứ.

Chủ đề 3:
THÁNH KINH -     LỜI CHÚA CHO ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA

Bài 9:  LỜI CHÚA KHƠI DẬY ĐỨC TIN

1. Lời Chúa
            “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,17).
2. Giải thích
            Thiên Chúa mặc khải chính mình bằng nhiều cách khác nhau cho con người nhận biết Ngài là chân lý tối hậu (GLHTCG 143). Và Tin là hành vi quy phục chân lý mặc khải, vì Đức tin được hiểu là sự đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa (GLHTCG, số 142).
            “Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài (Ep 1,9). Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa (Ep 2,18; 2 Pr 1,4). Trong việc mặc khải nầy, với tình thương chan chứa của Ngài, Thiên Chúa vô hình ngỏ lời với loài người như với bạn hữu (Xh 33,11/Ga 15,14-15). Ngài đối thoại với họ (Br 3,38) để mời gọi và đón nhận họ hiệp nhất với Ngài. Công cuộc mặc khải nầy được thực hiện bằng các hành động và lời nói liên kết mật thiết với nhau. Nên các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu rỗi, bày tỏ, củng cố giáo lý, và những điều được giải thích qua lời nói. Còn lời nói thì công bố các việc làm và khơi sáng mầu nhiệm trong đó. Nhờ mặc khải nầy, chân lý thâm sâu của Thiên Chúa cũng như về phần rỗi loài người, được sáng tỏ nơi Chúa Kitô, Đấng trung gian, đồng thời là sự viên mãn của toàn thể mặc khải” (DV 2).
            Chúa Giêsu là “Lời nhập thể” của Thiên Chúa, và sứ điệp Tin Mừng của Ngài là tỏ bày tình thương và ý định cứu độ của Thiên Chúa. Ngài kêu gọi mọi người “sám hối và tin” (Mc 1,14) để được cứu rỗi. Chính lời rao giảng của Ngài đã khơi dậy đức tin nơi người nghe. Câu chuyện sau đây là một minh chứng cụ thể: “... Vậy khi đến gặp Người, dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại với họ hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: Không còn phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng Cứu chuộc trần gian” (Ga 4,40-42). Thật vậy, Đức Giêsu là một con người ở trong lịch sử và cũng là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Ngài đến để nói lời Thiên Chúa, mời gọi mọi người nhận biết, tin và yêu mến Đấng họ phải tôn thờ. Lời Chúa khơi mở đức tin cho người nghe, đưa họ đến với Thiên Chúa, Đấng là Cha yêu thương cứu độ con người, đồng thời giúp họ nhận ra ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Thiên Chúa.
            Các tông đồ đã nhận lãnh từ Chúa Giêsu sứ mạng rao giảng Lời để khơi dậy đức tin: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo…” (Mc 16,15-16). Và “các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông” (Mc 16,20). Thánh Phaolô cảm nhận mối liên hệ sâu xa giữa đức tin và Lời Chúa, nên ngài bày tỏ như sau: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin... Quả vậy, có tin thật trong lòng mới được nên công chính, có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu rỗi.. Nhưng làm sao tin Đấng mà họ không nghe? Làm sao nghe nếu không có ai giảng?.. Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,8-14).
            Tiếp nối truyền thống các tông đồ, các chứng nhân của Chúa Kitô muôn thế hệ đã đi khắp thế gian để rao giảng lời Chúa nhằm khơi dậy đức tin cho mọi người trước khi rửa tội cho họ. Với ơn Chúa Thánh Thần, lời rao giảng có “sức quy tụ” và “khơi dậy đức tin” nơi người nghe, và làm nên Hội Thánh (Cv 2). Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nhấn mạnh: “Chính việc rao giảng Lời Chúa làm phát sinh ra đức tin, nhờ đó, ta gắn bó hết lòng với chân lý mặc khải và hoàn toàn phó thác cho Chúa Kitô: ‘Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô’ (Rm 10,17). Trọn lịch sử cứu độ đã dần dà cho thấy mối quan hệ thâm sâu giữa Lời Thiên Chúa và đức tin, một đức tin được hoàn thành trong cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Như thế, đức tin có dáng dấp cuộc gặp gỡ với một Đấng mà ta ký thác trọn đời cho. Hôm nay Đức Giêsu Kitô vẫn đang hiện diện trong lịch sử, trong Thân Thể Người là Hội Thánh; do đó, hành vi đức tin của ta vừa có tính riêng tư vừa có tính Hội Thánh” (VD 25). Và Đức Thánh Cha lưu ý chúng ta: “Chúa ban ơn cứu rỗi cho mọi người thuộc mọi thời đại. Tất cả chúng ta đều hiểu rằng, thật rất cần có ánh sáng của Chúa Kitô chiếu soi mọi lãnh vực của nhân loại.... Vấn đề không phải là rao giảng một lời an ủi, mà là một lời gây nên sự đoạn tuyệt, mời gọi hoán cải, giúp người ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa, nhờ đó, làm phát sinh một chồi lộc của một nhân loại mới” (VD 93).
3. Bài học
1/. H:    Thiên Chúa có tỏ mình ra cho con người không?
      T:     Thiên Chúa đã tự mặc khải chính mình cho con người bằng việc dần dần dùng lời nói và việc làm mà thông truyền mầu nhiệm riêng của Ngài (GLHTCG 69).
2/. H:     Thiên Chúa tự mặc khải chính mình cách trọn vẹn khi nào?
T:     Thiên Chúa đã tự mặc khải chính mình cách trọn vẹn khi sai chính Con Ngài đến trần gian. Nơi Chúa Con, Thiên Chúa đã thiết lập Giao ước của Ngài đến muôn đời. Con Thiên Chúa là Lời tối hậu của Chúa Cha nói với nhân loại. Sau Người, không còn mặc khải nào khác nữa (GLHTCG 73).
3/.  H:    Làm sao để khơi dậy đức tin cho ta và cho người khác?
        T:   Thánh Phaolô dạy rằng: “Đức tin có được là nhờ nghe Lời”. Vì thế, phương cách hữu hiệu để khơi dậy đức tin cho ta và cho người khác là chăm chỉ lắng nghe và loan báo Lời Chúa.
4/.    H: Làm sao để nghe được lời Chúa dạy?
T: Để nghe được lời Chúa dạy, ta phải mở lòng lắng nghe và chuyên cần đọc Thánh Kinh.

4. Quyết tâm Thực hành
           
            Để đức tin ngày càng thêm lớn mạnh, mỗi người cố gắng chăm đọc Thánh Kinh và sống theo Lời Chúa dạy (lectio divina - Verbum Domini  86-87).


Bài 10:  THÁNH KINH -
                LỜI MẶC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA
1. Lời Chúa
            “Con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho Con, họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng Con từ Cha mà đến... Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ, Lời Cha là sự thật” (Ga 17,7.17).
2. Giải thích
            Mọi chân lý đức tin đều phát xuất từ Thiên Chúa, nghĩa là đều dựa trên lời Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta biết. Những mặc khải đó được ghi chép lại thành Thánh Kinh, nên Thánh Kinh được hiểu là lời Thiên Chúa nói với loài người. Thánh Kinh (Cựu Ước: 46 cuốn, và Tân Ước: 27 cuốn) không phải là tác phẩm do loài người, nhưng là Sách Thánh, là Sách Mặc khải, vì đó là Lời Thiên Chúa ngỏ với loài người qua ngôn ngữ loài người. Vì vậy, Sách chỉ là phương tiện chuyên chở, còn Lời là nội dung mặc khải của Thiên Chúa cho loài người, qua các giai đoạn lịch sử của họ. Và mặc khải tối hậu và trọn vẹn của Thiên Chúa tìm thấy trong Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể: “Thuở xưa, nhiều lần, nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các Tiên tri (Cựu Ước) nhưng vào thời sau hết nầy, Ngài đã nói với chúng ta qua Thánh Tử” (Tân Ước) (Dt 1,1-2).
            “Toàn bộ Thánh Kinh (Cựu Ước và Tân Ước) là một cuốn sách duy nhất, và cuốn sách duy nhất ấy chính là Chúa Kitô, bởi vì toàn bộ Thánh Kinh nói về Chúa Kitô và toàn bộ Thánh Kinh được hoàn tất trong Chúa Kitô” (GLHTCG 134). Chúa Kitô là “tâm điểm” của toàn bộ Thánh Kinh, vì Người là Lời trọn vẹn của Thiên Chúa ngỏ với loài người (DV 15). Vì thế, thánh Hiêrônimô (380) nói:“Ai không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”.
            Hiến chế tín lý về mặc khải của Thiên Chúa Dei Verbum dạy: “Thánh Kinh là lời Chúa nói, được ghi chép lại dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần” (DV 8), và giải thích rằng: “Những gì Thiên Chúa mặc khải mà Thánh Kinh chứa đựng và trình bày, đều được viết ra dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần. Thực vậy, Mẹ Hội Thánh, nhờ đức tin tông truyền, xác nhận rằng, toàn bộ sách Cựu Ước cũng như Tân Ước với tất cả các thành phần, đều là Sách Thánh và được ghi vào bản chính lục của Thánh Kinh. Bởi lẽ Sách Thánh được viết ra dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần (Ga 20,31/2 Tm 3,16/2 Pr 1,19-21/2 Pr 3,15-16), nên tác giả của các sách ấy là chính Thiên Chúa và chúng được lưu truyền cho Hội Thánh đúng như vậy. Nhưng để viết các Sách Thánh, Thiên Chúa đã chọn những con người và dùng họ trong khả năng và phương tiện của họ, để khi chính Ngài hành động trong họ và qua họ, họ viết ra như những tác giả đích thực, tất cả những gì Thiên Chúa muốn, và chỉ viết những điều đó mà thôi” (DV 11a). Và Công đồng còn nói:“Phải xem mọi lời các tác giả được linh ứng viết ra, tức các Thánh sử, là những lời của Chúa Thánh Thần, nên phải công nhận rằng Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, những chân lý mà Thiên Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại vì phần rỗi chúng ta” (DV 11b).
            Sách Giáo Lý của Hội thánh Công giáo dạy: “Qua tất cả các lời ở trong Thánh Kinh, Thiên Chúa chỉ nói MỘT LỜI, là Ngôi Lời duy nhất của Ngài. Trong Ngôi Lời, Thiên Chúa bày tỏ tất cả về chính mình Ngài (GLHTCG 101-102). “Mặc dầu các sách hợp thành bộ Thánh Kinh có khác biệt nhau mấy đi nữa, Thánh Kinh vẫn chỉ là MỘT, bởi kế hoạch của Thiên Chúa chỉ có một, và Đức Kitô Giêsu là trung tâm và trái tim của kế hoạch ấy” (GLHTCG 112).
            Nói đến Thánh Kinh thì cũng phải nhắc đến Thánh Truyền: Thánh Truyền hay còn gọi là Truyền thống đức tin sống động của Hội Thánh, dựa trên mặc khải Thánh Kinh, bắt nguồn từ các tông đồ. Tóm lại, khái niệm “Thánh Truyền” muốn diễn tả rằng “nhờ hành động của Chúa Thánh Thần và dưới sự hướng dẫn của Huấn Quyền, Hội Thánh truyền đạt lại cho mọi thế hệ tất cả những gì đã được mặc khải trong Chúa Kitô” (VD 18). Như vậy, Thánh Truyền góp phần cùng với Thánh Kinh bảo toàn và lưu truyền mặc khải của Thiên Chúa cho nhân loại qua Hội Thánh. Do đó, Thánh Kinh, lời mặc khải của Thiên Chúa, cần phải được đọc và giải thích trong Thánh Truyền. Công đồng Vaticanô II dạy rằng: “Những gì Thiên Chúa đã mặc khải để cứu rỗi muôn dân, thì Ngài đã ân cần sắp đặt để luôn được bảo toàn và lưu truyền nguyên vẹn cho mọi thế hệ. Bởi thế, Chúa Kitô, nơi Người, Thiên Chúa tối cao hoàn tất trọn vẹn nguồn mặc khải (2 Cr 1,20; 3,16-4,6). Người đã truyền dạy các Tông đồ rao giảng cho mọi người Tin Mừng được hứa trước qua miệng các Tiên tri (Cựu Ước), được chính Người thực hiện và công bố (Tân Ước). Các ngài rao giảng Tin Mừng như NGUỒN mọi Chân lý cứu rỗi và Lề luật luân lý, đồng thời thông ban cho họ các ân thiêng. Việc nầy đã được thực hiện, một phần do các Tông đồ: hoặc qua lời giảng dạy, gương lành và các thể chế các ngài đã truyền lại những gì đã lãnh nhận từ miệng Chúa Kitô khi được chung sống với Người và đã thấy Người hành động, hoặc do đã học biết được nhờ Chúa Thánh Thần gợi ý (Truyền thống sống động). Phần khác, do chính các ngài và những người phụ tá các ngài đã viết lại Tin Mừng cứu rỗi dưới sự linh ứng của cùng một Chúa Thánh Thần (Thánh Kinh Tân ước)” (DV 7). “Thánh truyền do các Tông đồ truyền lại, được tiến triển trong Hội Thánh, dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Thực vậy, các sự việc và lời nói truyền lại, được hiểu biết thấu đáo hơn, nhờ sự chiêm ngắm và học hỏi của các tín hữu, những người đã ghi nhận các điều đó trong lòng (Lc 2,19.51)...Nhờ Thánh Truyền, Hội Thánh biết được toàn bộ chính lục Thánh Kinh, và cũng nhờ Thánh Truyền, mà Thánh Kinh được hiểu biết thấu đáo hơn, cũng như Thánh Truyền làm cho Thánh Kinh không ngừng hoạt động” (DV 8).   
3. Bài học
1/.    H:    Thánh Kinh là sách gì ?
        T:     “Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa nói, được ghi chép lại dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần” (GLHTCG 81), nên cũng gọi là Sách mặc khải.
2.     H:    Thánh Truyền là gì?
        T:     Thánh Truyền là truyền thống đức tin sống động của Hội Thánh bắt nguồn từ các tông đồ, qua đó Hội Thánh, nhờ Thần Chân Lý soi sáng, trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến bằng đời sống và việc rao giảng Lời Thiên Chúa đã được Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần ký thác cho các tông đồ (x. GLHTCG 81).
3/.    H:    Thánh Kinh gồm mấy phần?
        T:     Thánh Kinh có 2 phần: Cựu ước gồm 46 cuốn và Tân ước gồm 27 cuốn.
4/.    H:    Hội Thánh dạy ta điều gì về sách Thánh Kinh?
        T:     Hội Thánh dạy rằng: “Toàn bộ Thánh Kinh là một cuốn sách duy nhất, và cuốn sách duy nhất ấy chính là Chúa Kitô, bởi vì toàn bộ Thánh Kinh nói về Chúa Kitô và toàn bộ Thánh Kinh được hoàn tất trong Chúa Kitô (GLHTCG 134).
4. Quyết tâm thực hành       
            Xác tín “Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105) để luôn tìm đến với Thánh Kinh - Lời Chúa - khi an vui cũng như lúc buồn phiền, khi hạnh phúc cũng như lúc gặp thử thách, hầu nhận ra Thánh ý Chúa muốn nói với chúng ta.

Bài 11:      THÁNH KINH
                  TRONG ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH
1. Lời Chúa
           
            “Mẹ và anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).
            “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc 11,28). 
2. Giải thích
            Hiến chế tín lý về mặc khải của Thiên Chúa nói lên mối bận tâm của Hội Thánh trong việc làm thế nào để cho Lời Chúa “lớn lên và sinh hiệu quả” (Mt 13,8; Mc 4,8; Lc 8,8) trong đời sống Hội Thánh và nơi tâm hồn mỗi người tín hữu, nhờ việc yêu mến, học hỏi, suy gẫm, và đem ra thực hành.
            Thánh Kinh ở ngay giữa lòng Hội Thánh, khơi dậy đức tin và mời gọi mọi người gắn bó với Thiên Chúa. Thế nhưng, nhìn vào thực tế đời sống, chúng ta phải thừa nhận rằng nhiều Kitô hữu, vì không am hiểu Thánh Kinh, đã làm giảm “hiệu năng tác thánh” của Lời Chúa nơi tâm hồn họ, hoặc vì ít tiếp cận Thánh Kinh, nên chỉ biết Thánh Kinh cách phiến diện, hoặc rất mơ hồ về sứ điệp Tin Mừng. Vì thế, Hội Thánh khuyên dạy mỗi một người tín hữu hãy nhờ Chúa Thánh Thần “khơi nguồn”, nhận ra trách nhiệm đối với kho tàng mặc khải, để tìm từ nơi Lời Chúa, một sự hiện diện đúng đắn và đích thực của mình giữa lòng thế giới.
            Muốn hiểu Kinh Thánh, mỗi người đang được mời gọi làm cho đức tin cá nhân mình hòa nhịp với đức tin của toàn thể Hội Thánh, nghĩa là đặt mình dưới sự hướng dẫn của Huấn Quyền của Hội Thánh, vì “nhiệm vụ giải thích đích thực Lời Chúa đã được viết ra hay lưu truyền sống động chỉ được ủy thác cho Quyền Giáo Huấn của Hội Thánh, và Hội Thánh thi hành quyền đó nhân danh Chúa Giêsu Kitô” (DV 10). Từ đó, Hiến chế tín lý về mặc khải của Thiên Chúa được xem là nền tảng cho những nguyên tắc căn bản của Hội Thánh trong việc tìm hiểu Thánh ý Thiên Chúa qua Thánh Kinh xét như là Lời Mặc khải. Hiến chế tín lý về mặc khải của Thiên Chúa xác định vị trí và vai trò quan trọng của Hội Thánh trong đời sống của Hội Thánh; Hiến chế nhấn mạnh:
            - “Hội Thánh luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng vụ thánh, Hội Thánh không ngừng lấy Bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu”(DV 21 // Verbum Domini 72).
            - “Cùng với Thánh Truyền, Thánh Kinh đã và đang được Hội Thánh xem như là quy luật tối thượng hướng dẫn đức tin được Thiên Chúa linh ứng và đã được ghi chép một lần cho muôn đời, Thánh Kinh phân phát cách bất di bất dịch Lời của chính Chúa và làm vang dội tiếng nói của Chúa Thánh Thần qua các Tiên tri cùng các Tông đồ” (DV 21).
            - “Mọi lời giảng dạy trong Hội Thánh cũng như chính Đạo thánh Chúa Kitô phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn. Trong các Sách Thánh, Cha trên trời, bằng tất cả lòng trìu mến, đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ. Lời Chúa còn có sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Hội Thánh, là lương thực linh hồn, là nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Hội Thánh” (DV 21 // Verbum Domini 73).
            Và sau khi đưa ra những chỉ dẫn cho riêng từng thành phần Dân Chúa về việc tiếp cận Thánh Kinh là Lời của Thiên Chúa (DV 21-25), công đồng nhắn nhủ: “Ước gì họ hăng hái tiếp xúc với chính văn bản Thánh Kinh nhờ Phụng vụ thánh dồi dào Lời Chúa, nhờ sốt sắng đọc Thánh Kinh, nhờ những lớp học hỏi thích hợp, hoặc nhờ bất cứ phương thế nào mà nay đã được các chủ chăn trong Hội Thánh chấp nhận và ân cần phổ biến… Nhưng mọi người cũng nên nhớ rằng, kinh nguyện phải đi đôi với việc đọc Thánh Kinh để có sự đối thoại giữa Thiên Chúa với con người, vì chúng ta ngỏ lời với Người khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Người nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh”  (DV 25).
3. Bài học
1/.    H:    Trong toàn bộ Thánh Kinh, các sách nào giữ vị trí trung tâm cho đời sống Hội Thánh?
        T:     Bốn sách Tin Mừng giữ vị trí trung tâm, vì “Chúa Giêsu Kitô là tâm điểm của các sách ấy” (GLHTCG 139).
2/.    H:    Hội Thánh dạy ta phải tôn kính Thánh Kinh như thế nào?
        T:     Hội Thánh dạy ta “phải tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa, vì cả hai nuôi dưỡng và chi phối toàn bộ đời sống Kitô hữu” (GLHTCG 141).
3/.    H:    Hội Thánh dạy ta phải có thái độ nào đối với Thánh Kinh?
        T:     Hội Thánh khuyến khích mọi thành phần Dân Chúa “Hãy chuyên cần học hỏi Thánh Kinh và kiên trì theo đuổi với tất cả nhiệt tâm hợp với cảm thức của Hội Thánh” (DV 23).
4/.    H:    Cùng với Thánh Truyền, Thánh Kinh được Hội Thánh đón nhận như thế nào?
        T:     Cùng với Thánh Truyền, Thánh Kinh được Hội Thánh xem như là quy luật tối thượng hướng dẫn đức tin, được Thiên Chúa linh ứng và đã được ghi chép một lần cho muôn đời” (DV 21).

4. Quyết tâm thực hành

Các Cộng đoàn và các Giáo xứ tích cực tham gia các khóa suy niệm, học hỏi, tìm hiểu Thánh Kinh.


Bài 12:      LỜI CHÚA TRONG CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY CỦA NGƯỜI TÍN HỮU

1. Lời Chúa

“Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn, xây nhà mình trên đá” (Mt 7,24//Lc 6,47).
2. Giải thích
Cùng với Bí Tích Thánh Thể, Thánh Kinh luôn là “tâm điểm, đỉnh cao, nguồn mạch” đức tin của đời sống Kitô hữu. Có thể, với lòng yêu mến chân thành, chúng ta tham dự thánh lễ rất nhiều, với lòng tôn kính thẳm sâu, chúng ta tôn thờ Phép Thánh Thể, nhưng rất nhiều người, nhiều gia đình, đã không có một cuốn Thánh Kinh, ít ra là Tân Ước, cho riêng mình, và nếu có, thì cũng coi Thánh Kinh như bao cuốn sách khác, chưa nhận ra Sách Thánh là “Lời Chúa”, để biết cung kính đặt Thánh Kinh ở một “nơi xứng hợp” và để cầu nguyện (x. VD 85).
            Xuất phát từ mối ưu tư muốn giúp các tín hữu biết “đặt Lời Chúa đúng với chỗ đứng thánh thiêng và địa vị cao nhất” trong đời sống đức tin như Hội Thánh sơ khai vốn có, Hội Thánh đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng và địa vị của Thánh Kinh trong các cử hành Phụng vụ, nhất là trong Thánh lễ (x. SC 51) và trong đời sống của người tín hữu, để giúp họ ý thức rằng, mỗi khi họ tham dự hoặc cử hành Phụng vụ qua các Bí Tích, hay khi cầu nguyện với Lời Chúa, họ gặp gỡ chính Chúa, vì Chúa đang nói với họ qua Lời của Ngài và qua dấu chỉ Bí Tích được cử hành. Và đó là việc thờ phượng Thiên Chúa đích thực trong tinh thần và chân lý đúng như ý Chúa muốn (x. Ga 4,23).
Bên cạnh đó, Kitô hữu có thể kín múc từ Lời Chúa ánh sáng chiếu soi cho mọi vấn đề của cuộc sống. Vì vậy việc ham mộ việc đọc và học hỏi Thánh Kinh là một công việc cần thiết cho đời sống Kitô hữu, để Lời mặc khải được đón nhận cách xác thực và trọn vẹn, đem lại cho mọi người sức sống mới. Đức Thánh Cha Bênêđíctô dạy rằng: “Các Kitô hữu, đặc biệt là các Giáo lý viên, cần phải được học hỏi và đào tạo cách thích hợp... cần chú ý đến việc “Tông đồ Thánh Kinh”, một phương pháp rất có giá trị như kinh nghiệm của Hội Thánh đã cho thấy” (VD 75), và ngài nói thêm: “Họ cần được đào tạo để biết biện phân ý muốn của Thiên Chúa nhờ một cuộc sống thân tình với Lời Thiên Chúa” (VD 84).
Hội Thánh mời gọi con cái mình phát huy việc cầu nguyện trong gia đình, chăm chú lắng nghe Lời Chúa, học hỏi và hiểu biết Thánh Kinh, vì đó là nền tảng căn bản giúp các gia đình được bền vững. Để thực hiện được điều đó, Hội Thánh mong ước mỗi gia đình phải có sách Thánh Kinh, đặt nơi xứng hợp, để đọc và cầu nguyện (VD 85).
            Xác tín rằng Lời Chúa là nền tảng của mọi linh đạo Kitô giáo, là yếu tố cơ bản cho đời sống thiêng liêng của mọi tín hữu, Hội Thánh đề cao “Lectio Divina” (“Đọc Thánh Kinh trong tâm thế cầu nguyện”), thực hiện qua 5 bước chính là Đọc (lectio), Suy (meditatio), Cầu (oratio), Ngưỡng (contemplatio) và Hành (actio):
- Đọc bản văn Thánh Kinh để biết cách trung thực nội dung Lời Chúa muốn nói gì.
- Suy niệm để cảm nghiệm điều Lời Chúa nói gì với ta trong hiện tại.
- Cầu nguyện là đáp lại điều “Chúa nói” với ta qua bản văn ta vừa đọc; cầu nguyện có thể là khẩn xin, chuyển cầu, tạ ơn, ngợi khen...
- Chiêm ngưỡng là mở lòng đón nhận cái nhìn của Chúa để phán đoán các thực tại như một hồng ân Chúa ban và tự hỏi Chúa muốn ta phải hoán cải tinh thần, con tim và đời sống thế nào.
- Hành động là đem sứ điệp Lời Chúa vào trong cuộc sống, để Lời Chúa trở nên nguồn sức mạnh thúc đẩy ta sống và dâng hiến đời mình cho Chúa và tha nhân trong tình bác ái.
3. Bài học
1/.    H:    Thánh Kinh có địa vị nào trong đời sống người tín hữu?
        T:     Cùng với Bí Tích Thánh Thể, Thánh Kinh là “tâm điểm, đỉnh cao, và nguồn mạch” đức tin cho đời sống người tín hữu.
2/.    H:    Nhờ đâu gia đình Công giáo có được nền tảng căn bản và vững bền?
        T:     Nhờ gia đình biết phát huy việc cầu nguyện, chăm chú lắng nghe Lời Chúa, và chuyên cần học hỏi để hiểu biết Thánh Kinh mỗi ngày một hơn (VD 85).
3/.    H:    Cha mẹ có bổn phận nào đối với con cái trong việc giáo dục đức tin?
        T:     Cha mẹ có bổn phận thông truyền các giá trị đạo đức của Tin Mừng và lấy gương lành mà khơi gợi lên cho con cái mình lòng yêu mến đối với Lời Chúa.
4/.    H:    Ta phải đọc Thánh Kinh như thế nào?
        T:     Ta phải đọc chính bản văn Thánh Kinh, suy niệm, cầu nguyên, chiêm ngưỡng rồi hành động theo Lời Chúa dạy.

4. Quyết tâm thực hành

Gia đình Công giáo có một cuốn Thánh Kinh và đặt trên bàn thờ, và quyết tâm “đọc Lời Chúa trong tâm thế cầu nguyện” trong các buổi kinh gia đình.  
 
                
Chủ đề 4:
CỬ HÀNH PHỤNG VỤ
MỘT SỰ BIỂU LỘ ĐỨC TIN SỐNG ĐỘNG

Bài 13:      CÁC BÍ TÍCH ĐƯỢC THIẾT LẬP
CHO CON NGƯỜI VÀ VÌ CON NGƯỜI

1. Lời Chúa   
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ” (Mc 16,15-16a).

2. Giải thích
Các bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng, do Chúa Giêsu Kitô thiết lập và ủy thác cho Hội Thánh, để tiếp tục thông ban cho nhân loại mọi nơi mọi thời ân sủng và sự sống thần linh. “Nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn đưa Hội Thánh vào ‘sự thật toàn vẹn’ (Ga 16,13), Hội Thánh dần dần nhận ra kho tàng này mà mình đã lãnh nhận từ Chúa Kitô và xác định việc ‘ban phát’ kho tàng ấy, cũng như Hội Thánh đã làm với Thư Quy các Sách Thánh và giáo lý đức tin, với tư cách là người quản lý trung tín các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì vậy, theo dòng thời gian, Hội Thánh xác định trong số các cử hành phụng vụ của mình, có 7 cử hành là những bí tích, theo nghĩa hẹp của từ này, do Chúa thiết lập” (GLHTCG, số 1117).
Các bí tích được cử hành qua các dấu hiệu khả giác, tức là qua các lời đọc và những nghi thức phụng vụ. Các nghi thức này là cần thiết, vì con người, trong hiện hữu xác hồn, cần đến những dấu hiệu khả giác để đạt đến nhận thức về những thực tại thiêng liêng và các mầu nhiệm trong lịch sử cứu độ. “Bảy bí tích liên quan đến tất cả các giai đoạn và thời điểm quan trọng trong đời sống Kitô hữu: chúng làm cho đời sống đức tin của các Kitô hữu được sinh ra và lớn lên, được chữa lành và được trao sứ vụ. Về điều này, có một sự tương tự nào đó giữa những giai đoạn của đời sống tự nhiên và những giai đoạn của đời sống thiêng liêng” (GLHTCG, số 1210).
Các bí tích được Chúa Giêsu Kitô thiết lập cho con người và vì lợi ích ơn cứu độ con người, cụ thể là như phương thế dẫn đưa con người đi vào tương quan hiệp thông với Thiên Chúa là nguồn ơn cứu độ, vì “các bí tích có mục đích thánh hóa con người, xây dựng thân thể Chúa Kitô và sau cùng là thờ phượng Thiên Chúa” (SC 59). Ngoài ra, “là những dấu chỉ, các bí tích còn giữ vai trò giáo huấn nữa” (SC 59).
Các bí tích có một mối liên hệ mật thiết với đức tin. Việc lãnh nhận bí tích đòi buộc phải có đức tin. Đồng thời nhờ ân sủng các bí tích, đức tin được nuôi dưỡng và củng cố: “Các bí tích không những giả thiết phải có đức tin trước, mà chúng còn nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin bằng các lời đọc và các nghi thức; bởi vậy chúng được gọi là các bí tích của đức tin” (GLHTCG, số 1123).
3. Bài học
1/.    H:    Bí tích là gì?
        T:     Bí tích là những dấu chỉ khả giác và hữu hiệu của ân sủng, do Chúa Kitô thiết lập và ủy thác cho Hội Thánh cử hành, nhằm diễn tả và thông ban sự sống thần linh cho chúng ta.
2/.    H:    Các bí tích có cần thiết cho ơn cứu độ không?
        T:     Tất cả các bí tích đều cần thiết cho ơn cứu độ, mỗi bí tích theo một cách, vì ân sủng bí tích có sức chữa lành và biến đổi người lãnh nhận.
3/.    H:    Vì sao các bí tích phát sinh hiệu quả?
        T:     Các bí tích làm phát sinh hiệu quả, vì khi được cử hành đúng cách, thì chính Chúa Kitô hiện diện hoạt động trong các bí tích và thông ban ân sủng mà các bí tích biểu lộ.
4/.    H:    Người ta phải làm gì để lãnh nhận được ân sủng bí tích?
        T:     Để lãnh nhận được ân sủng bí tích, người lãnh nhận phải có đức tin, có ý hướng ngay lành, hiểu biết về bí tích và có thái độ sẵn sàng đón nhận.

IV. Quyết tâm thực hành

            Năng dâng lên Chúa lời nguyện tạ ơn: “Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì Chúa đã lập các bí tích để ban ơn cứu độ cho chúng con.”


Bài 14:        CỬ HÀNH PHỤNG VỤ DIỄN TẢ NIỀM TIN SỐNG ĐỘNG

1. Lời Chúa

“Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42).
2. Giải thích
            Việc cử hành phụng vụ là một việc quan trọng và không thể thiếu trong đời sống của Hội Thánh ngay từ thời các Tông đồ (x. Cv 2). Trong các cử hành bí tích, cử hành Thánh Thể chiếm giữ vị trí trung tâm, vì Thánh Thể là “nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo” (LG 11). “Thật vậy, phép Thánh Thể chí thánh chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Hội Thánh: đó là chính Chúa Kitô, Người là mầu nhiệm Phục Sinh và Bánh Hằng Sống của chúng ta. Người ban sự sống cho nhân loại bằng chính Thịt của Người, Thịt đã trở nên sống động nhờ Thánh Thần và ban sự sống cho con người” (PO 5).
            Hành động cứu độ của Thiên Chúa đạt đến sự hoàn tất trong biến cố Thiên Chúa trao ban Con Một Yêu Dấu và Thánh Thần của Ngài. Chúa Kitô hoàn tất công trình cứu độ qua cuộc khổ nạn thập giá, sự sống lại và lên trời vinh hiển, vì nhờ đó, Người đã chết để tiêu diệt sự chết và sống lại để tái lập sự sống cho nhân loại. Và qua mọi thời đại, trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, cử hành các bí tích, nhất là cử hành thánh lễ, tái hiện công trình cứu độ của Chúa Kitô, để nhờ đó ơn cứu độ được tiếp tục chuyển ban cho các Kitô hữu là những người tin. Vì thế, “Phụng vụ được xem là việc thực thi chức vụ tư tế của chính Chúa Kitô, trong đó công cuộc thánh hóa con người được biểu tượng nhờ những dấu chỉ khả giác và được thể hiện hữu hiệu cách khác nhau theo từng dấu chỉ, và trong đó việc phụng tự công cộng vẹn toàn được thực thi nhờ Nhiệm Thể Chúa Kitô, nghĩa là Đầu và các chi thể Người. Do đó, vì là công việc của Chúa Kitô tư tế và Thân Thể của Người là Hội Thánh, nên mọi việc cử hành phụng vụ đều là hành vi chí thánh, và không có một hành vi nào của Hội Thánh có hiệu lực bằng, xét cả về danh hiệu lẫn đẳng cấp” (SC 7).
            Là hành động thánh thiêng và tiêu biểu nhất, cử hành phụng vụ các bí tích, nhất là thánh lễ, là chóp đỉnh mà mọi hoạt động của Hội Thánh hướng đến, đồng thời cũng là nguồn mạch phát sinh mọi năng lực hoạt động của Hội Thánh, bởi vì “nhờ phụng vụ, nhất là trong hy tế Thánh Thể của Chúa, ‘công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện’. Phụng vụ góp phần rất nhiều để giúp các tín hữu, qua cuộc sống mình, diễn tả và biểu lộ cho người khác mầu nhiệm Chúa Kitô và bản chất đích thực của Hội Thánh” (SC 2).
            Khi quy tụ để cử hành phụng vụ bí tích, cộng đoàn diễn tả và công bố đức tin sống động của mình vào ơn cứu cứu độ Thiên Chúa thương ban cho con người. “Khi cử hành các bí tích, Hội Thánh tuyên xưng đức tin đã lãnh nhận từ các Tông Đồ. Từ đó có câu thành ngữ cổ: ‘Lex orandi, lex credendi’, nghĩa là ‘Luật cầu nguyện, luật đức tin’ (hay như lời ông Prospêrô Aquitanô vào thế kỷ thứ 5: ‘Legem credendi lex statuat supplicandi’, nghĩa là ‘Luật của việc khẩn cầu ấn định luật của đức tin’. Luật của việc cầu nguyện là luật của đức tin. Hội Thánh tin như Hội Thánh cầu nguyện. Phụng vụ là yếu tố cấu thành của Truyền thống thánh thiện và sống động” (GLHTCG, 1124).
3. Bài học
1/.    H:    Phụng vụ là gì?
        T:     Phụng vụ là việc cử hành Mầu nhiệm Chúa Kitô, nhất là cử hành Mầu nhiệm Vượt qua của Người, là hành động chính thức của Hội Thánh nói lên việc thờ phượng công khai đối với Thiên Chúa.
2/.    H:    Cử hành phụng vụ có vị trí nào trong đời sống Hội Thánh?
        T:     Cử hành phụng vụ các bí tích, nhất là cử hành thánh lễ, là chóp đỉnh mà mọi hoạt động của Hội Thánh hướng đến, đồng thời cũng là nguồn mạch phát sinh mọi năng lực hoạt động của Hội Thánh.
3/.    H:    Đâu là mối liên hệ giữa đức tin và cử hành phụng vụ các bí tích?
        T:     Việc lãnh nhận các bí tích đòi buộc phải có đức tin, đồng thời các bí tích nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin qua các lời đọc và những nghi thức.
4/.    H:    Kitô hữu tham dự cử hành phụng vụ như thế nào?
        T:     Với tư cách là thành viên của dân tư tế, mỗi Kitô hữu tham dự vào cử hành phụng vụ của Hội Thánh một cách tích cực và sinh động tùy theo phận vụ riêng của mình.

4. Quyết tâm thực hành
            Tham dự cử hành thánh lễ và các bí tích một cách tích cực và sinh động bằng việc lắng nghe Lời Chúa, hòa nhịp tâm hồn vào các nghi thức, các lời nguyện và các bài ca phụng vụ.


Bài 15:            THÁNH HÓA NGÀY CHÚA NHẬT

1. Lời Chúa
            “Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh” (Cv 20,7).

2. Giải thích
            Chúa Nhật, ngày thứ nhất trong tuần, có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt đối với Kitô giáo, vì Chúa Giêsu Kitô đã sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần, khởi đầu cho một công cuộc sáng tạo mới. Đây là sự kiện trung tâm và nền tảng cho toàn bộ đức tin Kitô giáo. Vì thế, ngay từ thời Hội Thánh sơ khai, Chúa Nhật là ngày các Kitô hữu họp nhau để cử hành Thánh Thể: “Chúng tôi tụ họp nhau vào ngày Chúa Nhật, bởi vì đó là ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà Thiên Chúa biến đổi bóng tối và vật chất mà tạo dựng vũ trụ, và vì vào chính ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta, đã sống lại từ trong kẻ chết” (Justin, Apologie I, 67,7).
            Tiếp nối nhận thức truyền thống của Hội Thánh về ý nghĩa của ngày Chúa Nhật, công đồng Vaticanô II dạy rằng: “Theo tông truyền bắt nguồn từ chính ngày Chúa Kitô sống lại, Hội Thánh cử hành mầu nhiệm phục sinh vào mỗi ngày thứ tám, ngày thật đáng gọi là ngày của Chúa hay ngày Chúa Nhật. Thực vậy, trong ngày đó các Kitô hữu phải họp nhau lại để nghe Lời Chúa và tham dự Lễ Tạ Ơn, để kính nhớ cuộc Thương khó, sự Sống lại và Vinh quang của Chúa Giêsu, đồng thời cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã ‘dùng sự Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô từ trong kẻ chết sống lại mà tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động’ (1 Pr 1,3). Vì vậy, ngày Chúa Nhật là ngày lễ độc đáo phải được đề cao và in sâu vào lòng đạo đức của các tín hữu, để ngày ấy trở thành ngày vui mừng và ngày nghỉ việc. Các cuộc lễ khác, nếu không thật sự là lễ rất quan trọng thì không được lấn át ngày Chúa Nhật, bởi vì ngày Chúa Nhật là nền tảng và trung tâm của cả năm phụng vụ” (SC 106).
            Việc “Thánh hóa ngày Chúa Nhật”, hay như thường quen gọi là việc “Giữ ngày Chúa Nhật”, trong đó cử hành thánh lễ là tâm điểm, chính là lời đáp trả của Hội Thánh đối với hồng ân sáng tạo và cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện liên lỉ cho con người và vũ trụ. Việc chu toàn bổn phận “Thánh hóa ngày Chúa Nhật” không phải là một gánh nặng phải chu toàn, song là một nhu cầu thiết yếu của đời sống các Kitô hữu, vì các Kitô hữu không thể sống mà không cử hành ngày Chúa Nhật.
            Bổn phận thánh hóa ngày Chúa Nhật bằng việc tham dự cử hành thánh lễ vừa là một đòi buộc của đức tin, vừa là một quyền căn bản của Kitô hữu. Do vậy, mọi Kitô hữu đều được kêu mời thi hành bổn phận thánh hóa ngày Chúa Nhật trong tâm tình tin yêu và tạ ơn đối với Thiên Chúa, trong ý thức trách nhiệm đối với đời sống đức tin của cá nhân và của cộng đoàn, đồng thời trong vai trò đại diện cho tất cả những người vẫn còn xa Chúa và chưa biết Chúa mà thờ phượng Ngài. “Việc tham dự cuộc cử hành chung bí tích Thánh Thể ngày Chúa Nhật là bằng chứng sự liên kết và trung thành với Chúa Kitô và với Hội Thánh của Người. Như vậy các tín hữu chứng tỏ sự hiệp thông của mình trong đức tin và đức mến. Họ cùng nhau làm chứng cho sự thánh thiện của Thiên Chúa và cho niềm hy vọng của mình vào ơn cứu độ. Họ làm cho nhau nên vững mạnh dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần” (GLHTCG, số 2182).
3. Bài học
1/.    H:    Đâu là điều chính yếu nhất của việc thánh hóa ngày Chúa Nhật?
        T:     Là tham dự cử hành thánh lễ, vì đó là việc thờ phượng Thiên Chúa cần được ưu tiên nhất.
2/.    H:    Vì sao tham dự thánh lễ ngày Chúa Nhật là công việc ưu tiên của Kitô hữu?
        T:     Vì khi cùng với cộng đoàn tham dự cử hành thánh lễ, Kitô hữu thực thi việc thờ phượng Thiên Chúa, chăm sóc và nuôi dưỡng đức tin, đồng thời biểu lộ tư cách Kitô hữu của mình.
3/.    H:    Ngoài việc tham dự cử hành thánh lễ, Kitô hữu nên làm gì để thánh hóa ngày Chúa Nhật?
        T:     Ngoài việc tham dự thánh lễ, ngày Chúa Nhật phải là ngày dành riêng để làm việc lành và khiêm tốn phục vụ mọi người trong đức ái.
4/.    H:    Phải nghĩ thế nào về luật “Giữ ngày Chúa Nhật”?
        T:     Kitô hữu không nên xem việc “Giữ ngày Chúa Nhật” là một luật buộc phải giữ như một gánh nặng, nhưng là một nhu cầu thiết yếu của đời sống Kitô hữu, vì đó là một phần không thể thiếu trong đời sống đức tin của Kitô hữu, để nghỉ ngơi theo như ý Chúa và thánh hóa thời giờ Chúa ban.
IV. Quyết tâm thực hành
            Tham dự thường xuyên thánh lễ Chúa Nhật và các ngày lễ buộc, đồng thời tránh tất cả những điều gây cản trở việc chu toàn bổn phận thánh hóa ngày Chúa Nhật.


Bài 16:      CẦU NGUYỆN, BẰNG CHỨNG CỦA MỘT ĐỨC TIN SỐNG ĐỘNG

1. Lời Chúa
            “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ‘Abba, Cha ơi!’” (Gl 4,6).
2. Giải thích
Chúa Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện. Tân ước cho thấy Chúa Giêsu là con người của cầu nguyện, và cuộc sống của Người là mẫu gương của đời sống cầu nguyện. Thánh sử Máccô mô tả một ngày sống của Chúa Giêsu ở Caphanaum bắt đầu với việc từ “sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc 1,35); và sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, “Người lên núi cầu nguyện” (Mc 6,46). Đọc Tân ước, chúng ta thấy tất cả hoạt động của Chúa Giêsu đều phát xuất từ việc Người hiệp thông với Thiên Chúa Cha trong lời cầu nguyện; và những biến cố quan trọng trong cuộc đời của Đấng Cứu Độ được mặc khải rõ ràng và được trình bày như những biến cố liên kết với việc cầu nguyện.
Trong đời sống của Kitô hữu, cầu nguyện và đức tin liên kết mật thiết với nhau. Nếu đức tin không chỉ là việc lý trí đón nhận những điều Chúa dạy, nhưng còn là hành vi của ý chí muốn sống theo ý Chúa, gắn bó với Chúa và phó thác cuộc sống cho Ngài, thì cầu nguyện chính là bằng chứng rõ rệt cho một đức tin sống động của Kitô hữu. Cầu nguyện đưa dẫn Kitô hữu vào sự hiệp thông với Thiên Chúa, trong đó sự thấp hèn và yếu đuối của thân phận thụ tạo sẽ được lấp đầy bởi sự cao sang và mạnh mẽ của Đấng Sáng tạo: “Trong Giao Ước mới, cầu nguyện là mối tương quan sống động của con cái Thiên Chúa với Cha vô cùng nhân hậu của mình, với Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô và với Chúa Thánh Thần. Ân sủng của Nước Trời là ‘sự kết hợp của toàn thể Ba Ngôi Chí Thánh... với toàn thể tâm trí con người’. Như vậy, sống cầu nguyện là luôn sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa Chí Thánh và trong sự hiệp thông với Ngài. Việc hiệp thông sự sống này lúc nào cũng có thể thực hiện được, vì nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta đã nên một với Chúa Kitô. Sự cầu nguyện mang đặc tính Kitô giáo khi đó là sự hiệp thông với Chúa Kitô và được triển nở trong Hội Thánh là Thân Thể Người. Các chiều kích của cầu nguyện cũng chính là những chiều kích của tình yêu Chúa Kitô” (GLHTCG, số 2565).
Trước khi trở thành một lời nói, một tư tưởng được xếp đặt thứ tự hẳn hoi, thì cầu nguyện bắt nguồn từ đức tin và lòng phó thác đặt vào Thiên Chúa. Như vậy, một đức tin cụ thể và sống động là nền tảng không thể thiếu của mọi hình thức cầu nguyện. Cầu nguyện là tôn thờ Thiên Chúa: là chúc tụng và thờ lạy, xin ơn và chuyển cầu, tạ ơn và ca ngợi. Chúng ta cầu nguyện cùng Thiên Chúa, vì chúng ta xác tín rằng Ngài là Thiên Chúa của chúng ta và mọi sự đều phát xuất từ Ngài và phụ thuộc vào Ngài. Khi cầu nguyện, chúng ta đặt mình trong ánh sáng của Thiên Chúa để nhận ra mình là ai, ơn gọi và sứ mạng của mình là gì, và để nhận biết sự thánh thiện, sự cao cả, tình yêu và ý muốn tràn đầy yêu thương vô biên của Ngài dành cho chúng ta.
Theo Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, khi “Chúa nói: Hãy cầu nguyện luôn, thì theo lẽ tự nhiên, Ngài không đòi chúng ta phải đọc kinh liên tục, nhưng chính là đừng bao giờ đánh mất mối dây liên lạc nội tâm với Thiên Chúa. Thực thi mối liên hệ này chính là ý nghĩa việc cầu nguyện của chúng ta. Do đó, cần phải bắt đầu và kết thúc ngày sống của mình bằng việc cầu nguyện. Chúng ta hãy nghe Chúa nói qua việc đọc Kinh Thánh. Chúng ta hãy nói với Chúa những ước ao và mong đợi, mọi niềm vui nỗi buồn, những sai lầm và dâng lời tạ ơn vì mọi điều tốt lành, như thế chúng ta luôn luôn đặt Chúa trước mặt, làm đích quy chiếu cho đời mình. Vậy chúng ta hãy xét mình về những sai lỗi và học cách làm việc để nên tốt hơn, đồng thời cũng trở nên nhạy cảm với mọi cái thiện và từng cái đẹp vẫn diễn ra mỗi ngày và do đó càng thêm lòng biết ơn. Và với lòng biết ơn, niềm vui được thêm lên vì biết Thiên Chúa ở gần chúng ta và chúng ta có thể phục vụ Ngài… Qua lòng đạo đức ấy, đức tin đi vào tâm hồn con người, trở thành một phần của những xúc cảm, thói quen, cách cảm nhận và phong cách sống của họ…, và lòng đạo đức ấy làm cho chúng ta trở thành Dân Chúa một cách rất thực tế” (ĐTC Bênêđíctô XVI, Thư gửi các chủng sinh, 28.10.2010).
3. Bài học
1/.    H:    Tại sao mọi người đều được kêu mời thực hành cầu nguyện?
        T:     Vì cầu nguyện là sự diễn tả cách sống động đức tin và nói lên mối liên hệ cá nhân với Thiên Chúa Ba Ngôi.
2/.    H:    Đâu là các hình thức chính yếu của kinh nguyện Kitô giáo?
        T:     Đó là chúc tụng và thờ lạy, xin ơn và chuyển cầu, tạ ơn và ca ngợi. Tất cả các hình thức cầu nguyện này được diễn tả một cách sống động nhất trong cử hành thánh lễ.
3/.    H:    Đâu là thời gian Kitô hữu ưu tiên cho việc cầu nguyện hằng ngày?
        T:     Mọi thời điểm trong ngày điều thích hợp cho việc cầu nguyện, nhất là kinh sáng và kinh tối, thánh lễ và kinh mân côi, trước và sau khi dùng cơm.
4/.    H:    Cầu nguyện trong gia đình có vai trò gì trong đời sống Kitô hữu?
        T:     Gia đình Kitô hữu là nơi đầu tiên dạy chúng ta cầu nguyện. Vì thế, hằng ngày chúng ta nên cầu nguyện chung với nhau trong gia đình, vì đó là bằng chứng đầu tiên của đời sống cầu nguyện trong Hội Thánh.
IV. Quyết tâm thực hành
            Tích cực tham dự các buổi cầu nguyện của cộng đoàn và các giờ kinh trong gia đình.



Chủ đề 5:
SỐNG ĐỨC TIN
TRONG MÔI TRƯỜNG THẾ TỤC HÓA

Bài 17:
PHONG TRÀO THẾ TỤC HÓA VÀ NHỮNG NGUY HẠI CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỨC TIN
1. Lời Chúa
"Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em" (Ga 15,18-20).
2. Giải thích
Phong trào thế tục hoá (sécularisation hay laicisation) diễn ra vào khoảng thế kỷ XIX cho tới đầu thế kỷ XX tại các nước Âu Châu Kitô giáo. Phong trào thế tục hoá được định nghĩa như là hiện tượng của xã hội đời ngày càng thoát khỏi dấu ấn của các cơ cấu và biểu tượng tôn giáo, khiến Đức tin  Kitô giáo cũng ngày càng mất đi ý nghĩa trong xã hội và trong đời sống cá nhân.
Từ nội dung là sự tách rời quyền đời khỏi quyền đạo, phong trào thế tục hoá ngày nay đang lan rộng trong mọi tầng lớp xã hội, ngay cả trong giới công giáo, như là hiện tượng chung của tất cả những gì loại bỏ tôn giáo, loại bỏ thế giới thần thiêng, mầu nhiệm ra khỏi đời sống cá nhân, gia đình và xã hội, và đề cao những gì do con người hoặc do lý trí, khoa học, kỹ thuật của con người tạo ra. Do đó, đức tin không tránh khỏi ảnh hưởng của nó.
Trong xã hội bị ảnh hưởng mạnh của thế tục hoá, những gì là thiêng thánh không còn được tin cách dễ dàng . Sự sa sút niềm tin vào Thiên Chúa và các mầu nhiệm ngày càng nặng nề, nhất là khi đời sống đạo còn non nớt do thiếu hiểu biết giáo lý và đời sống nội tâm cầu nguyện chưa hình thành hoặc chỉ ở mức độ hời hợt bên ngoài.
Đồng thời, một khi niềm tin vào những gì là thiêng thánh càng suy giảm thì những gì thuộc trần tục, có thể đụng chạm, nhìn thấy được lại càng được coi trọng. Bởi vậy, nơi một số tín hữu, những tiêu chí lựa chọn, đánh giá thường mang tính thực dụng, nghĩa là có tính cách vật chất, trần tục. Từ những lựa chọn theo thế tục hoá, Đức tin  sẽ dần dần yếu kém và dần dà chỉ còn là một Đức tin  "không có việc làm là một Đức tin  chết" (Gc 2,17).
Từ đó, các Kitô hữu dễ dàng rơi vào tình trạng sống chung với  sự dữ, với tội lỗi. Một số ngày càng sa sút về ý thức đạo đức, chỉ sống trong hận thù, ghen ghét, chém giết và  khủng bố, hoặc rơi vào tinh trạng nghiện ngập ma tuý, nhiễm HIV vì không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, chán chường với hiện tại, với gia đình, xã hội. Một số khác ra sức chạy đua với tiền tài, địa vị, kiến thức, danh vọng xã hội để lấp đầy cuộc sống của mình. Vật chất đối với họ là trên hết, nên hậu quả là họ bỏ bê, chểnh mảng bổn phận chăm lo đời sống thiêng liêng, một điều rất cần thiết cho đời sống tâm linh của người mang danh Kitô hữu.
Hậu quả là mọi giá trị đạo đức và luân lý bị đảo lộn: thay vì xem quan hệ nam nữ là ân huệ Thiên Chúa ban để trao hiến và nên một với nhau, nhờ đó mà yêu thương nhau và sinh sản con cái, thì họ chỉ coi đó như một lạc thú, chỉ tìm hưởng thụ để thỏa mãn chính mình. Người ta cũng không coi gia đình là thiêng liêng nữa, nên thích nhau thì ở, không thích thì bỏ đi, mặc con cái ra sao thì ra. Không những thế, không mấy cha mẹ còn muốn mang gánh nặng nuôi con, nên hoặc triệt sản, ngừa thai, hay trót mang thai rồi thì phá bỏ một cách không thương tiếc.
Trước những thách đố và nguy hại do chủ nghĩa thế tục hóa gây nên, người Kitô hữu phải sống như thế nào để có thể thực thi lời Thánh Phaolô căn dặn các tín hữu ở Philipphê: “Anh em sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa giữa một thế hệ gian tà, sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh  em phải chiếu sáng như những vì sao trên  vòm trời, là làm sáng tỏ Lời ban sự sống” (Pl 2,15-16).
3. Bài học
1/.    H:    Phong trào thế tục hóa là gì?
        T:     Đó là hiện tượng xã hội đời ngày càng thoát khỏi dấu ấn của các cơ cấu và biểu tượng tôn giáo, khiến Đức tin  Kitô giáo cũng ngày càng mất đi ý nghĩa trong đời sống xã hội và cá nhân.
2/.    H:    Phong trào thế tục hóa ngày nay đang lan rộng trong mọi tầng lớp xã hội theo chiều kích nào?
        T:     Phong trào thế tục hoá ngày nay đang lan rộng trong mọi tầng lớp xã hội, ngay cả trong giới Công giáo, như là hiện tượng chung muốn loại bỏ tôn giáo, loại bỏ thế giới thần thiêng, mầu nhiệm ra khỏi đời sống cá nhân, gia đình và xã hội, và đề cao những gì do lý trí, khoa học, kỹ thuật của con người tạo ra.
3/.    H:    Phong trào thế tục hóa gây nguy hại gì cho Đức tin Kitô giáo?
        T:     Phong trào thế tục hoá gây ra các nguy hại này:
-   một là người ta ngày càng không tin vào Thiên Chúa và vào các mầu nhiệm thiêng thánh nữa.
-   hai là con người ngày một mất dần ý thức đạo đức, chỉ sống trong hận thù, ghen ghét, chém giết và khủng bố... Vì vậy, người ta mặc sức chung sống với sự dữ, sự  tội  trong đời sống cá nhân hay trong cộng đồng xã hội.
-   ba là mọi giá trị đạo đức và luân lý bị đảo lộn, từ đó, những gì là sự thật siêu nhiên, sự thật cứu độ, sự thật về Thiên Chúa, về đời sau bị lu mờ và coi thường.
4. Quyết tâm thực hành
Trong xã hội sa đọa vì gương xấu đầy dẫy, chúng ta quyết tâm sống niềm tin vào Thiên Chúa, thực thi công bình bác ái, và tuân phục mọi giáo huấn của Hội thánh. 


Bài 18:      SỐNG ĐỨC TIN
TRONG MÔI TRƯỜNG THẾ TỤC HÓA

1. Lời Chúa
"Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo" (Rm 12,1-2).
2. Giải thích
Phong trào thế tục hóa và những hệ lụy của nó tác động nặng nề trên Đức tin, làm cho Đức tin bị suy giảm và lung lạc, đi đến chỗ chết dần chết mòn.
Đối diện với nền văn hoá tiêu thụ, ích kỷ, bạo động và chết chóc như thế, Hội thánh đã kêu gọi xây dựng một “nền văn minh tình thương”. Giáo huấn xã hội của Hội Thánh đề nghị lấy tình thương làm nguyên tắc, làm tiêu chuẩn và định hướng cho xã hội mới. Tình thương này có thể gọi là “bác ái Kitô giáo cho xã hội” và phải bao trùm toàn thể nhân loại. Chính “tình yêu hướng tới xã hội” này là phản đề đối với ích kỷ chủ nghĩa và cá nhân chủ nghĩa.  Hiện nay, khá phổ biến tình trạng người trẻ ngại dấn thân cho những việc công ích xã hội. Lối sống ích kỷ, khép kín, chính là điều cản trở việc sống Đức tin, đồng thời, vì thiếu tinh thần trách nhiệm đối với môi trường cuộc sống mà những tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng.
Nói cách khác, "nền văn minh tình thương" tập trung vào các giá trị xã hội Công giáo, những gì giúp chúng ta yêu thương người lân cận của mình. Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi để dấn thân trong xã hội trần thế, làm thay đổi xã hội bằng cách nâng cao phẩm giá đời sống gia đình và chu toàn bổn phận làm người và làm con Chúa. Chúng ta được mời gọi để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa, vào Hội thánh, vào các lề luật luân lý Kitô giáo, và quyết tâm xa tránh mọi hình thái của “văn hóa sự chết” đang đầu độc Đức tin. Đồng thời, mỗi thời điểm là một cơ hội, là dịp để thông truyền tình thương, thông truyền và cổ vũ các giá trị đạo đức có sức cứu rỗi như công bình, bác ái, trong sạch, chính trực...
Thế gian càng sa đọa và sa sút về luân lý đạo đức thì người có niềm tin vào Thiên Chúa càng phải sống đức tin ấy cách cụ thể và sống động, không chỉ để phân biệt mình với kẻ không có đức tin, mà còn để lôi kéo những ai đang mê lầm ra khỏi nanh vuốt của sự dữ, sự tội nhờ gương sống chứng tá của mình. Đó là thách đố cho chúng ta trước những nguy cơ đe dọa Đức tin rất nghiêm trọng của thời đại thế tục hóa và tôn thờ vật chất ngày nay.
3. Bài học
1/.    H:    Trước những nguy hại do phong trào thế tục hóa tác động trên Đức tin, chúng ta phải có thái độ nào?
        T:     Là người Kitô hữu sống trong môi trường thế tục hóa, với những áp lực của sự dữ tràn lan trong xã hội, chúng ta phải giữ vững Đức tin không bị lung lay chao đảo, và còn phải nêu gương sáng để lôi kéo và nâng dậy những ai đã và đang sa xuống vực thẳm của nền "văn hóa sự chết".
2/.    H:    Đối diện với nền văn hoá tiêu thụ, ích kỷ, bạo động và chết chóc như thế, Hội Thánh Công giáo chủ trương như thế nào?
        T:     Hội Thánh đã kêu gọi xây dựng một “nền văn minh tình thương", lấy tình thương làm nguyên tắc, tiêu chuẩn và định hướng cho xã hội mới.
3/.    H:    Chúng ta phải sống Đức tin  trong môi trường thế tục hóa như thế nào?
        T:     Chúng ta được mời gọi để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa, bằng đời sống chuyên chăm cầu nguyện, đào sâu Lời Chúa, tôn sùng Bí tích Thánh Thể, đặc biệt tham dự Thánh lễ, đồng thời quyết tâm xa tránh mọi tội lỗi, xa tránh mọi hình thái của nền “văn hóa sự chết” đang lôi cuốn con người ở khắp nơi vào hố hư mất đời đời.
4. Quyết tâm thực hành
Để củng cố Đức tin trước sự lan tràn của xu hướng thế tục, chúng ta cố gắng học hỏi trau dồi giáo lý, Kinh Thánh, và siêng năng cầu nguyện, nhất là đến với bí tích Thánh Thể và bí tích Giải Tội, để có thể gặp gỡ được Đấng mà chúng ta tôn thờ và hết lòng yêu mến.


Chủ đề 6:
SỐNG ĐỨC TIN
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA

Bài 19:
BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỨC TIN

1. Lời Chúa
"Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian. Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian" (Ga 17,14-18).

2. Giải thích
Ngày nay, Hội Thánh đang phải đối diện với xu hướng toàn cầu hoá đang gắng sức biến thế giới thành một "Thế giới phẳng", nghĩa là một thế giới không còn ngăn cách về không gian và không có bất cứ một rào cản nào. Toàn cầu hoá đã manh nha từ thế kỷ 15, và ngày nay đã phát triển đến mức người ta gọi là thời của hậu hiện đại.
Hội Thánh nhận định: "Toàn cầu hoá làm nảy sinh nhiều hy vọng mới, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề phiền phức. Toàn cầu hoá có thể tạo ra những kết quả khả dĩ mang lại lợi ích cho toàn thể nhân loại" (HĐGMVN, "Tóm lược Học thuyết xã hội của Giáo Hội", NXB Tôn giáo 2007, số 362, tr. 255). Mặc dầu chưa có sự đồng thuận về ý nghĩa và giá trị của toàn cầu hóa, không ai có thể phủ nhận sự hiện hữu và tầm quan trọng của nó.
Về mặt tích cực và thuận lợi, toàn cầu hóa tạo điều kiện để khám phá những điều mới mẻ, giúp tiếp cận với những tư tưởng cũng như những phương cách và kỹ năng hành động đem lại nhiều công ích, thiện hảo. Đặc biệt, với các phương tiện truyền thông hiện đại, tin tức và hình ảnh khắp thế giới loan đi thật xa, nối kết mọi người cách nhanh chóng, giúp đối thoại trực tiếp, công khai bình đẳng và giao thoa nghĩa vụ cũng như quyền lợi giữa các quốc gia, các nhóm xã hội, hay cả với các gia đình và mỗi người... cho dù ở bất cứ góc bể chân trời nào.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, toàn cầu hóa đang đưa đến những mặt tiêu cực, những luồng gió độc, ảnh hưởng đến đời sống tinh thần và Đức tin của người tín hữu. Thật vậy, do ảnh hưởng của các “căn bệnh chủ nghĩa”: chủ nghĩa tự do (thích làm gì thì làm), chủ nghĩa cá nhân (chỉ biết sống cho mình mà không cần quan tâm đến những người khác), chủ nghĩa hưởng thụ (thích tiêu xài, hưởng lạc thú, thỏa mãn bản thân, tận hưởng sung sướng), chủ nghĩa duy lợi (dành phần tốt cho mình, đánh giá cuộc sống theo những món lợi), chủ nghĩa tương đối (tất cả chỉ là tương đối, kể cả Thiên Chúa và các giá trị cao cả như tình yêu, lòng vị tha...). Tất cả đang làm cho đời sống Đức tin  của nhiều Kitô hữu suy yếu. 
Ngoài ra, ngày nay, do ảnh hưởng văn hóa Phương Tây tràn vào, lại được các công nghệ thông tin hiện đại truyền bá lối sống sùng bái cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi xa hoa, lãng phí, sống truỵ lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực... nên nhiều người Công Giáo đang xa rời những giáo huấn căn bản của Hội Thánh về Đức tin và luân lý, xa rời những giá trị nền tảng của Tin Mừng... Chính tình trạng trên đã đưa con người vào con đường tội lỗi, lún sâu vào vũng lầy của các đam mê cám dỗ.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cảnh báo: "Trong một xã hội với một nền kỹ thuật tân tiến, các phương tiện truyền thông xã hội và toàn cầu hóa, mọi sự đều trở nên hối hả, và sự cách biệt văn hóa giữa các thế hệ đang gia tăng, càng ngày càng lớn hơn. Những thông tin khác biệt nhất và những kinh nghiệm không thể đoán trước được, đang nhanh chóng xâm nhập vào đời sống của các trẻ nhỏ và thanh thiếu niên, và các bậc cha mẹ có thể rất lo âu về những mối nguy hiểm mà con cái họ phải đương đầu. Đôi khi, các bậc cha mẹ rơi vào thất vọng não nề khi con cái thất bại trong việc chống trả lại những quyến rũ của nền văn hóa ma túy, sự lôi cuốn của chủ nghĩa khoái lạc vô độ, cám dỗ giải quyết bằng bạo lực, và những biểu lộ muôn mặt của vô nghĩa và thất vọng(Tông thư Kinh Mân Côi Đức Trinh Nữ  Maria, ngày 16/10/2002, số 42).
3. Bài học
1/.    H:    Phải hiểu toàn cầu hóa như thế nào?
        T:     Toàn cầu hóa tạo điều kiện để khám phá những điều mới mẻ, giúp tiếp cận với những tư tưởng cũng như những phương cách kỹ năng hành động đem lại nhiều công ích, thiện hảo. Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng đã và đang làm lu mờ không chỉ đời sống Đức tin, mà ngay cả những giá trị đạo đức căn bản của con người.
2/.    H:    Hội Thánh nhận định thế nào về toàn cầu hóa?
        T:     Hội Thánh nhận định về toàn cầu hoá như sau: "Toàn cầu hoá làm nảy sinh nhiều hy vọng mới, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề phiền phức. Toàn cầu hoá có thể tạo ra những kết quả khả dĩ mang lại lợi ích cho toàn thể nhân loại"
3/.    H:    Xu hướng toàn cầu hóa tác hại thế nào trên Đức tin của các Kitô hữu?
        T:     Xu hướng toàn cầu hóa khiến con người xa rời những chuẩn mực đạo đức truyền thống, coi thường hoặc phủ nhận các giá trị cao cả của Tin Mừng, đặc biệt làm cho con người chạy theo các trào lưu duy vật và tôn thờ tiền bạc, sống thực dụng và  hưởng thụ, nên ngày càng thờ ơ với đời sống Đức tin, đời sống cầu nguyện, không tin vào Thiên Chúa nữa.
4. Quyết tâm thực hành
Học hỏi và đào sâu Giáo Lý Hội thánh Công giáo.

Bài 20:          SỐNG ĐỨC TIN
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA 

1. Lời Chúa
"Anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng" (Rm 13,11-14).
2. Giải thích
Đức tin trước hết là một ơn ban của Thiên Chúa. Nhưng để Đức tin được triển nở và vững mạnh cần có sự đáp trả của con người, nghĩa là về phía con người đi tìm chân lý, còn về phía Thiên Chúa đã, đang và luôn ban ánh sáng đặc biệt để dẫn dắt con người. Ánh sáng soi đường là Đức Giêsu Kitô. Vì thế, trong thực tại của toàn cầu hóa hôm nay, hơn bao giờ hết, Đức tin có một tầm quan trọng hết sức cơ bản đối với Kitô hữu chúng ta.
Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nhấn mạnh: "Nền tảng Đức tin Kitô giáo là “gặp gỡ một sự kiện, gặp gỡ một Người, Đấng mở ra một chân trời mới cho cuộc sống và qua đó đưa ra định hướng dứt khoát cho mình" (Thông điệp Deus caritas est, 25-12-2005, số 1).
Vậy đâu là điểm quy chiếu để chúng ta sống xứng đáng với tư cách là con cái Thiên Chúa trong thời đại này, một thời đại đòi hỏi chúng ta m chứng nhân đích thực cho Đức tin Kitô giáo?
Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đề ra cho chúng ta một định hướng sống Đức tin khi ngài nói trong Sứ điệp cho ngày Thế giới Di dân và Di cư năm 2012: "Thật thế, ngày nay chúng ta càng cảm thấy nhu cầu cấp bách phải tạo một sức bật mới, một phong cách mới để tiếp cận việc rao giảng Tin Mừng trong một thế giới mà các biên giới đang dần bị xóa bỏ, và tiến trình toàn cầu hóa đang làm cho các cá nhân và dân tộc ngày càng gần gũi nhau hơn."
Tuy nhiên, muốn làm chứng tá cho Tin Mừng trong bối cảnh xã hội hôm nay, Chân phước Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta “hãy dùng Lời mà nuôi dưỡng mình để trở nên tôi tớ của Lời trong công tác rao giảng Tin Mừng… trong một tình thế ngày càng phân hóa và đòi hỏi hơn… lồng trong bối cảnh toàn cầu hóa với hệ quả là các dân tộc và văn hóa hòa trộn với nhau, một điều vừa mới mẻ lại vừa bấp bênh” (Novo Millennio Ineunte, 40).
Như thế, khi xác tín rằng “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118, 105), chúng ta cần ý thức hơn về tầm quan trọng của Lời Chúa trong cuộc đời mình. Một cách cụ thể, chính việc đọc kinh chung (thường giờ kinh tối) là thời gian phù hợp để mọi người trong gia đình qui tụ lại lắng nghe Lời Chúa, như lời dạy của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 2000: “Bậc cha mẹ phải cố gắng biến những giây phút cả gia đình qui tụ bên nhau thành cơ hội để cầu nguyện, đọc và suy niệm Sách Thánh”.
Thứ đến, việc chuyên cần đến với bí tích Thánh Thể và bí tích Giải Tội giúp chúng ta gặp gỡ được Đấng mà chúng ta tôn thờ và hết lòng yêu mến. Bên cạnh đó, việc noi gương các Thánh là những người đã đổ ra đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ Đức tin của mình cũng sẽ giúp chúng ta dễ dàng và can đảm làm chứng nhân cho Đức tin vào Thiên Chúa tình yêu của chúng ta. 
Như vậy, sống Đức tin trong bối cảnh toàn cầu hóa không chỉ là cố gắng học hỏi trau dồi kiến thức giáo lý, Kinh Thánh, mà còn phải sống Đức tin một cách sung mãn, như  Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI trong sứ điệp gửỉ Đại Hội giới trẻ 2011 tại Madrid nhắn nhủ:“Bao nhiêu Kitô hữu đã và đang sống chứng tá về sức mạnh của Đức tin  được biểu lộ qua đức ái. Họ là những người kiến tạo hòa bình, thăng tiến công lý, xây dựng một thế giới nhân bản hơn, một thế giới theo kế hoạch của Thiên Chúa. Họ dấn thân trong nhiều lãnh vực của đời sống xã hội, với khả năng chuyên nghiệp, góp phần hữu hiệu vào hạnh phúc của mọi người. ... Trong thời đại toàn cầu hóa của chúng ta, các bạn hãy trở thành chứng nhân của niềm hy vọng Kitô giáo trên khắp thế giới. Biết bao người mong ước đón nhận niềm hy vọng này!”. Đó là cách sống và thể hiện Đức tin cho thế giới hôm nay.
3. Bài học
1/.    H:    Trong bối cảnh toàn cầu hóa hôm nay, tại sao Đức tin lại quan trọng cho người Kitô hữu?
        T:     Trong bối cảnh toàn cầu hóa hôm nay, chỉ có Đức tin mới dẫn đưa chúng ta đến gặp gỡ một Người, một Đấng mở ra một chân trời mới cho cuộc sống và qua đó đưa ra định hướng dứt khoát cho mọi hành vi, cử chỉ, thái độ của mình.
2/.    H:    Người Kitô hữu cần phải làm gì để Đức tin ngày càng lớn mạnh?
        T:     Để Đức tin lớn mạnh giữa những thách đố của thời đại toàn cầu hóa, người Kitô hữu cần say mê học hỏi và yêu mến Lời Chúa, qua các buổi kinh tối gia đình, đồng thời siêng năng tham dự Thánh lễ, yêu mến bí tích Thánh Thể và bí tích Giải Tội, cũng như hết lòng thực thi luật bác ái yêu người.
3/.    H:    Kitô hữu còn phải làm gì để sống Đức tin giữa thời đại này?
        T:     Người Kitô hữu cần nung nấu trong lòng quyết tâm rao giảng Đức Kitô, Đấng cứu độ duy nhất của thế giới, biết loan Tin Mừng làm chứng cho Chúa Phục sinh một cách đáng tin trong môi trường mình sống, biết dùng lời nói và hành động làm chứng nhân cho niềm hy vọng Kitô giáo trên khắp hoàn cầu.          
4. Quyết tâm thực hành
Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang làm cho các cá nhân và dân tộc ngày càng gần gũi nhau hơn, chúng ta cần mạnh dạn loan báo Tin Mừng ở bất cứ mọi nơi, bằng lời nói, và nhất là bằng những việc bác ái yêu thương.


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG TẬP SÁCH

DV:               Dei Verbum - Hiến chế tín lý về mặc khải của Thiên Chúa.
FD:                Fidei Depositum - Tông hiến “Kho tàng đức tin”.
GLHTCG:     Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo.
PF:                 Porta fidei - Tự sắc “Cánh cửa đức tin”.
LG:                Lumen Gentium - Hiến chế tín lý về Giáo Hội.
SC:                Sacrosanctum Concilium - Hiến chế về Phụng vụ thánh.
VD:               Verbum Domini - Tông huấn “Lời Thiên Chúa”.


.............................................................................................................................

 

75 CÂU TRẮC NGHIỆM HỌC HỎI TÔNG THƯ TỰ SẮC "PORTA FIDEI"

 

01. Năm Đức Tin lần thứ I diễn ra dưới triều đại Đức Giáo Hoàng nào?
a. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.
b. Đức Giáo Hoàng Piô XII.
c. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
d. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.

02. Năm Đức Tin lần thứ I diễn ra vào năm nào?
a. Năm 1960    b. Năm 1962
c. Năm 1967    d. Năm 1972

03. Năm Đức Tin lần thứ I kỷ niệm sự kiện gì?
a. Kỷ niệm 1950 năm Chúa Giêsu chết để cứu chuộc con người.
b. Kỷ niệm 1900 năm thánh Phaolô trở lại.
c. Kỷ niệm 1900 năm tử đạo của 2 thánh Phêrô và Phaolô tông đồ.
d. Kỷ niệm Ngày kết thúc Công Đồng Vaticanô II.

04. Năm Đức Tin lần thứ II diễn ra dưới triều đại Đức Giáo Hoàng nào?
a. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.
b. Đức Giáo Hoàng Piô XII.
c. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
d. Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI.

05. Năm Đức Tin lần thứ II kỷ niệm sự kiện gì?
a. Kỷ niệm ngày thành lập Hàng giáo Phẩm Việt Nam.
b. Kỷ niệm 50 năm khai mạc
Công Đồng chung Vatican II.
c. Kỷ niệm 20 Năm ban hành Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo.
d. Chỉ có b và c đúng.

06. Năm Đức Tin sẽ kết thúc vào ngày lễ gì?
a. Lễ Các Thánh Nam Nữ năm 2013.
b. Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ năm 2013.
d. Lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 2013.
d. Lễ Giáng Sinh năm 2013.

07. Công đồng Vatican II được Đức Giáo Hoàng nào khai mạc?
c. Đức Giáo Hoàng Piô XII.
b. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.
c. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
d. Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI.

08. Công đồng Vatican II được Đức Giáo Hoàng nào bế mạc?
a. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.
b. Đức Giáo Hoàng Piô XII.
c. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
d. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.

09. Công đồng Vatican II được khai mạc vào ngày nào?
a. 11.10.1960   
b. 11.10.1962
c. 25.12.1962   
d. 01.01.2013

10. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã quyết định triệu tập Công Ðồng Vatican II, bằng văn kiện nào?
a. Tông huấn "Humanae Salutis" (Ơn Cứu Ðộ Loài Người).
b. Tông thư tự sức “Porta Fedei” (Năm Đức Tin).
c. Thông điệp Redemptor Homilis (Đấng Cứu chuộc nhân thế).
d. Thông điệp Deus caritas est (Thiên Chúa là tình yêu).

11. Công đồng Vatican II có bao nhiêu văn kiện?
a. 10      
b. 12
c. 14      
d. 16

12. Công đồng Vatican II có những Hiến Chế nào? 
a. Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium).
b. Hiến chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium).
c. Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải của Thiên Chúa (Dei Verbum).
d. Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et Spes).
e. Cả a, b, c và d đúng.
13. Công đồng Vatican II có những Tuyên ngôn nào?
a. Tuyên ngôn về giáo dục Kitô giáo (Gravissimum Educationis).
b.Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo (Nostra Aetate).
c.Tuyên ngôn về tự do tôn giáo (Dignitatis Humanae).
d. Cả a, b và c đúng.

14. Hiến chế là gì?
a. Bản văn của Công Đồng chung về Tín lý hay Mục vụ. Hiến chế có hiệu lực như một sắc luật cho cả thế giới.
b. Văn kiện của Tòa Thánh giải thích một đạo luật ban hành hay quãng diễn một vấn đề.
c. Văn kiện của Đức Giáo Hoàng quãng diễn một vấn đề, đặc biệt một vấn đề do Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới bàn thảo.
d. Văn kiện do Đức Giáo Hoàng kí và công bố, thường được viết do chính ngài đọc, kí tên, không có ấn triện

15. Tuyên ngôn là gì?
a. Văn kiện của Tòa Thánh giải thích một đạo luật ban hành hay quãng diễn một vấn đề.
b. Văn kiện do Đức Giáo Hoàng kí và công bố, thường được viết do chính ngài đọc, kí tên, không có ấn triện
c. Văn kiện của Đức Giáo Hoàng về một vấn đề, gởi cho cả thế giới, dưới một bức thư chung.
d. Văn kiện của Đức Giáo Hoàng quãng diễn một vấn đề, đặc biệt một vấn đề do Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới bàn thảo

16. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được Đức Giáo Hoàng nào công bố?
a. Đức Giáo Hoàng Piô XII.
b. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.
c. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
d. Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI.
17. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được công bố năm nào?
a. Năm 1980   
b. Năm 1982
c. Năm 1988   
d. Năm 1992
18. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được công bố với văn kiện gì?
a. Fidei Depositum (Kho Tàng Đức Tin).
b. Porta Fidei (Cánh Cửa Đức Tin).
c. Rerum Novarum (Tân sự).
d. Mater et Magistra (Mẹ và Thầy).

19. Hội Thánh toàn cầu sẽ khai mạc Năm Đức Tin vào ngày 11 tháng Mười năm 2012, nhân kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng Chung Vatican II, tại Việt Nam ngày khai mạc Năm Đức Tin chung ở cấp Hội Đồng Giám Mục Việt Nam sẽ cử hành vào ngày nào?
a. Ngày 07 tháng Mười 2012.
b. Ngày 12 tháng Mười 2012.
c. Ngày 18 tháng Mười 2012.
d. Ngày 21 tháng Mười 2012.

20. Hỏi: Ngày khai mạc Năm Đức Tin ở các Giáo Phận là ngày nào?
a. Ngày 1 tháng Mười (Lễ Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu).
b. Ngày 7 tháng Mười (Lễ Đức Mẹ Mân Côi)
c. Ngày 18 tháng Mười (Lễ thánh Luca Tông đồ).
d. Ngày 21 tháng Mười (Lễ Khánh nhật truyền giáo).

21. Hỏi: Ngày khai mạc Năm Đức Tin tại các Giáo xứ là ngày nào?
a. Ngày 1 tháng Mười (Lễ Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu).
b. Ngày 7 tháng Mười (Lễ Đức Mẹ Mân Côi)
c. Ngày 18 tháng Mười
(Lễ thánh Luca Tông đồ).
d. Ngày 21 tháng Mười (Lễ Khánh nhật truyền giáo).

22. Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ Giáo Lý Đức Tin thì đối với mọi tín hữu, Năm Đức Tin sẽ đem lại một cơ hội tốt để làm gì?
a. Học hỏi kỹ lưỡng những văn kiện chính của Công đồng Vatican II
b. Nghiên cứu sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo.
c. Nghiên cứu những tác phẩm chú giải Thánh Kinh kinh điển.
d. Chỉ có a và b đúng.

23. Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ Giáo Lý Đức Tin ở cấp giáo xứ, mọi tín hữu được mời gọi làm gì?
a. Chuyên chú đọc và suy ngẫm Tự sắc Cánh cửa đức Tin (Porta Fidei ) của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI.
b. Đọc và cầu nguyện với phương pháp Lectio Divina.
c. Sống đời sống đức ái một cách đặc biệt.
d. Chầu Thánh Thể và siêng năng lần hạt Mân côi.

24. Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ Giáo Lý Đức Tin các giáo lý viên cần phải làm gì?
a. Cần khai thác hơn nữa giáo thuyết phong phú của sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo
b.  Giúp các nhóm tín hữu đọc / và cùng tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của văn kiện quý báu này, để hình thành những cộng đoàn đức Tin nhỏ, làm chứng về Chúa Giêsu.
c. Phát triển phong trào Bảo vệ Sự Sống.
d. Chỉ có a và b đúng.

25. Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ Giáo Lý Đức Tin, trong Năm Đức Tin, tu sĩ các Hội dòng và hội viên các Tu đoàn tông đồ được mời gọi làm gì?
a. Dấn thân vào công cuộc tân Phúc âm hóa qua việc gắn bó mật thiết hơn nữa với Chúa Giêsu, theo đặc sủng riêng của mình / và trung thành với Đức Thánh Cha cũng như với giáo lý đúng đắn.
b. Chia sẻ cuộc sống trần thế với những anh chị em nghèo khó.
c. Giúp cho mọi người được biết Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
d. Cả a, b và c đúng.

26. Trong cuộc hội thảo (từ ngày 10-13.7.2012)  Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ HĐGMVN đã chọn chủ đề nào cho người trẻ sống Năm Đức Tin?
a. Cho niềm tin tươi sáng.
b. Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.
c. Chúa Kitô, niềm hy vọng của người trẻ.
d. Chúa Kitô, nguồn sống mới.

27. Câu Thánh Kinh của  Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ HĐGMVN đã chọn cho người trẻ sống Năm Đức Tin này là gì?
a. “Tôi biết tôi tin vào ai” (2 Tm 1,12).
b. “Yêu thương là chu toàn lề luật”  (Rm 13,1).
c. “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga  4,16).
d. “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6).

28. Trong cuộc hội thảo từ ngày mồng 10 đến 13 tháng 7 năm 2012 của Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, các tham dự viên đã chọn ngày nào là ngày giới trẻ trong Năm Đức Tin tại các giáo phận và giáo xứ?
a. Ngày 25 tháng Hai 2013.
b. Ngày 1 tháng Ba 2013.
c. Ngày 13 tháng Ba 2013.
d. Ngày 19 tháng Ba 2013.

29. Trong cuộc Hội thảo do Uỷ ban Giới trẻ tổ chức tại Hải Phòng (từ 10 đến 12-7-2012) Đức Gm. Giuse Vũ Văn Thiên nhắc lại lời của  Đức Thánh Cha đã viết là: “Một điều quan trọng trong Năm Đức Tinlà duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người nam nữ để làm tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng tá cuộc sống của họ, còn lịch sử tội lỗi phải thúc giục mỗi người hoán cải chân thành và trường kỳ để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha Đấng đến gặp tất cả mọi người” (Porta Fidei, số 13). Duyệt lại đức tin có nghĩa là gì?
a. Là học hỏi giáo lý.
b. Là việc nhận ra vị trí của Chúa trong đời mình.
c. Là việc thể hiện đức tin trong cuộc sống thường ngày.
d. Cả a, b và c đúng.

30. “Duyệt lại đức tin” vì sao trước hết là học hỏi giáo lý ?
a.  Vì kiến thức “chắp vá” và rời rạc nên nhiều bạn trẻ dễ mất đức tin.
b.  Vì những bạn trẻ xa quê thường rơi vào hai tình huống: một là mất hẳn đức tin; hai là mang một đức tin biến dạng, tổng hợp pha lẫn mê tín dị đoan.
c. Vì đức tin lung lạc, mà bạn trẻ quan niệm lệch lạc về tính dục, về luân lý và về thực hành đức tin (đi lễ, lãnh nhận các bí tích…)
d. Cả a, b và c đúng.

31. “Duyệt lại đức tin” vì sao còn là việc nhận ra vị trí của Chúa trong đời mình ?
a. Vì khi nghiêm túc nhìn lại cách sống đức tin của mình, bạn trẻ nhận ra Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống.
b. Sự hiện diện của Chúa giúp cho bạn trẻ niềm vui và niềm hăng say phấn khởi phụng sự Ngài.
c. Vì người tín hữu cũng cần xác định mình là ai trong mối tương quan với Chúa và với anh chị em, để nhờ đức tin thấm đượm vào cuộc đời, họ được biến đổi nên giống Đấng mà họ tin theo.
d. Cả a, b và c đúng.

32. “Duyệt lại đức tin” vì sao còn là việc thể hiện đức tin trong cuộc sống thường ngày ?
a. Như thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17).
b. Chứng thực mình là người tốt.
c. vì Muốn bắt chước mọi người.
d. Chỉ có a và b đúng.

33. Trong Tông thư Năm Đức Tin, Đức Giáo Hoàng đã dùng từ  "Cánh cửa đức tin". Từ này được trích từ sách nào? (Porta Fidei Số 1)
a. Sách Công vụ tông đồ.
b. Thư gởi tín hữu Do thái.
c. Thư gởi tín hữu Rôma.
d. Sách Khải Huyền.

34. "Cánh cửa đức tin" (Xc Cv 14,27) dẫn vào đời sống hiệp thông với Thiên Chúa và vào Giáo Hội vẫn luôn mở rộng cho chúng ta. Việc bước qua cánh cửa ấy kèm theo sự gì? (Porta Fidei Số 1)
a. Sự dấn thân trong một hành trình kéo dài suốt đời.
b. Lời hứa Nước Trời.
c. Lời hứa sẽ được sự sống vĩnh cửu.
d. Sẽ được sự bình an chân thật.

35. Đức Giáo Hoàng luôn nhắc nhở về sự cần thiết phải tái khám phá hành trình đức tin để ngày càng làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say phấn khởi được đổi mới nhờ được gặp gỡ ai? (PF Số 2)
a. Anh em.    
b. Chúa Giêsu.
c. Giáo Hội.    
d. Thiên Chúa.
36. Trong bài giảng Thánh Lễ khai mạc triều đại Giáo Hoàng, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã nói: "Giáo Hội nói chung và các vị Mục Tử trong Giáo Hội, giống như ai, phải lên đường, để dẫn đưa con người ra khỏi sa mạc, tiến đến sự sống, hướng về tình bạn với Con Thiên Chúa, về Ðấng ban cho chúng ta sự sống, sự sống sung mãn"  (Porta Fidei Số 2)
a. Người mục tử.   
b. Chúa Kitô.
c. Các Tông đồ.   
d. Các ngôn sứ

37. Chúng ta không thể chấp nhận để cho muối trở nên nhạt và ánh sáng bị che kín (Xc Mt 5,13-16). Cả con người ngày nay cũng có thể tái cảm thấy nhu cầu như người phụ nữ xứ Samaria đến giếng nước để làm gì?  (Porta Fidei Số 3)
a. Lắng nghe Chúa Giêsu, Ðấng mời gọi
b. Tin nơi Chúa Giêsu.
c. Kín múc nơi nguồn mạch của Chúa Giêsu vọt lên dòng nước sự sống.
d. Cả a, b và c đúng.

38. Chúng ta phải tìm lại sở thích nuôi dưỡng mình bằng điều gì? (Porta Fidei Số 3)
a. Lời Chúa.    
b. Bánh Sự Sống.
c. Đức ái.    
d. Chỉ có a và b đúng.

39. Giáo huấn của Chúa Giêsu vẫn còn vang dội mạnh mẽ ngày nay như trước đây: "Các con hãy cố gắng làm việc không phải để được lương thực mau qua, nhưng là lương thực tồn tại mãi mãi" (Ga 6,27). Câu hỏi mà những người nghe Chúa nêu lên cũng là thắc mắc đối với chúng ta ngày nay và chúng ta biết câu trả lời của Chúa Giêsu: "Công việc của Thiên Chúa là: Anh em hãy tin nơi Ðấng mà Ngài đã sai đến" (Ga 6,29). Vì thế, tin nơi Chúa Giêsu Kitô đó là gì? (Porta Fidei Số 3)
a. Con đường để có thể đạt tới ơn cứu độ một cách vĩnh viễn.
b. Đạt được hạnh phúc.
c. Cùng đích của con người
d. Sống bác ái với mọi người.
40. Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI quyết định ấn định Năm Ðức Tin sẽ bắt đầu từ ngày nào?
(Porta Fidei Số 4)
a. Ngày  11.10.2012
b. Ngày  08.12.1012
c. Ngày  25.12.1012
d. Ngày  01.01.2013

41. Trong Năm Đức Tin này Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI sẽ triệu tập một Thượng HÐGM vào tháng 10 năm 2012 với đề tài gì? (Porta Fidei Số 4)
a. Về Lời Chúa.
b. Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin Kitô.
c. Thánh Thể.
d. Ơn gọi và Sứ mệnh của các Tín Hữu Giáo Dân trong Giáo Hội và trong thế giới.

42. Khởi sự Năm Ðức Tin trùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican II có thể là một cơ hội thích hợp để chúng ta làm gì? (Porta Fidei Số 5)
a. Tuyên xưng đức tin mà chúng ta đã lãnh nhận.
b. Sống chứng nhân cho Chúa Giêsu Kitô giữa lòng thế giới đang tục hóa.
c. Hiểu rằng các văn kiện Công đồng, được các Nghị Phụ để lại như gia sản,  "không bị mất giá trị, cũng như vẻ tươi sáng".
d. Cả a, b và c đúng.

43. Để hiểu các văn kiện của Công đồng, chúng ta cần đọc các văn kiện ấy thế nào? (Porta Fidei Số 5)
a. Một cách thích hợp.
b. Cần biết rõ.
c. Hấp thụ các văn kiện ấy.
d. Cả a, b và c đúng.

44. Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI cảm thấy nghĩa vụ phải nêu cao Công đồng như là gì? (Porta Fidei Số 5)
a. Hồng ân lớn lao mà Giáo Hội được hưởng trong thế kỷ 20.
b. Một địa bàn chắc chắn để định hướng trong con đường của thế kỷ đang mở ra"
c. Trách nhiệm phải thi hành.
d. Chỉ có a và b đúng.

45. Chính cuộc sống giữa trần thế, các tín hữu được mời gọi làm cho Lời Chân lý mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta được thế nào? (Porta Fidei Số 6)
a. Chiếu sáng rạng ngời.
b. Công bố cho mọi người.
c. Thiên Chúa chúc lành.
d. Hiệp thông với mọi người.

46. Từ sức mạnh của Chúa phục sinh, Giáo Hội kín múc năng lực để làm gì?  (Porta Fidei Số 6)
a. Kiên trì và yêu thương khắc phục những    sầu muộn và khó khăn.
b. Để tỏ lộ mầu nhiệm về Chúa, giữa lòng thế giới, một cách trung thực cho đến khi mầu nhiệm ấy được tỏ lộ trong ánh sáng sung mãn vào cuối thời gian.c. Để hiệp nhất với mọi người trên toàn thế giới.
d. Chỉ có a và b đúng.

47. Năm Ðức Tin là một lời mời gọi thực hiện một cuộc trở về cùng Chúa là ai?  (Porta Fidei Số 6)
a. Đấng tạo dựng nên vũ trụ.
b. Ðấng duy nhất cứu độ thế giới.
c. Đấng giải phóng dân tộc Israen.
d. Đấng mà các ngôn sứ đã tiên báo.

48. Tình yêu của ai thúc bách chúng ta?  (Porta Fidei Số 7)
a. Nhân loại.   
b. Đấng tạo dựng.
c. Chúa Kitô.   
d. Mẹ Maria.

49. "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta" (2 Cr 5,14): chính tình yêu Chúa Kitô làm đầy tâm hồn chúng ta và thúc đẩy chúng ta làm gì? (Porta Fidei Số 7)
a. Xây dựng xã hội tốt đẹp.
b. Khai trí mọi người.
c. Loan báo Tin Mừng.
d. Chăm lo cho những người nghèo khổ.

50. Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta hãy đọc những tác phẩm của ai để tiến tới "cánh cửa đức tin". (Porta Fidei Số 7)
a. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu.
b. Thánh Têrêxa Avila.
c. Thánh Augustinô.
d. Thánh Tôma Aquinô.

51. Trong dịp kỷ niệm tốt đẹp này, Đức Giáo Hoàng muốn mời gọi các Giám Mục trên toàn thế giới hãy hiệp với Người Kế Vị Thánh Phêrô, trong thời điểm ân phúc thiêng liêng mà Chúa ban cho chúng ta, để tưởng niệm điều gì?(Porta Fidei Số 8)
a. Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.
b. Hồng ân đức tin quí giá.
c. Năm Thánh cứu độ.
d. Cả a, b và c đúng.

52. Đức Giáo Hoàng kêu gọi cần gia tăng suy tư về đức tin để giúp tất cả các tín hữu của Chúa Kitô ý thức hơn và củng cố lòng gắn bó với với điều gì? (Porta Fidei Số 8)
a. Thánh Thể.   
b. Tin Mừng.
c. Giáo Hội.    
d. Chúa Kitô.

53. Trong Năm Ðức Tin này, Đức Giáo Hoàng kêu gọi các cộng đoàn dòng tu cũng như các giáo xứ, và toàn thể các tổ chức Giáo Hội hãy tìm cách làm cho việc tuyên xưng kinh gì một cách công khai? (Porta Fidei Số 8)
a. Kinh Lạy Cha.
b. Kinh Tin.
c. Kinh Tin Kính.
d. Kinh Cầu Trái Tim Chúa Giêsu.

54. Chúng ta mong muốn rằng Năm Ðức Tin khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng gì? (Porta Fidei Số 9)
a. Tuyên xưng đức tin trọn vẹn và với xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng.
b. Được sống hạnh phúc với Thiên Chúa.
c. Được hiệp thông với mọi chi thể đau khổ của Chúa Kitô.
d. Được loan báo tin mừng một cách tự do.

55. Năm Đức Tin sẽ là một cơ hội thích hợp để tăng cường việc cử hành đức tin trong phụng vụ, đặc biệt là trong Bí tích gì? (Porta Fidei Số 9)
a. Thánh Tẩy      
b. Thánh Thể
c. Sám Hối   
d. Truyền Chức Thánh

56. Trong Năm Ðức Tin này sự quyết tâm mà mỗi tín hữu phải biến thành của mình khi tái  khám phá điều gì?(Porta Fidei Số 9)
a. Nội dung đức tin được tuyên xưng.
b. Cử hành, sống và cầu nguyện.
c. Suy tư về chính hành động đức tin.
d. Cả a, b và c đúng.

57. Điều gì chỉ rằng hành vi đầu tiên ta đạt đến đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa và tác động của ơn thánh hành động và biến đổi con người ngay từ nội tâm? (Porta Fidei Số 10)
a. Con tim    
b. Lòng mộ mến
c. Sự tin tưởng   
d. Đức ái

58. Việc tuyên xưng ngoài miệng cho thấy đức tin bao gồm những việc gì? (Porta Fidei Số 10)
a. Làm chứng.
b. Dấn thân công khai.
c. Sống tình thân ái.
d. Chỉ có a và b đúng.

59. Việc hiểu biết đức tin dẫn chúng ta vào đâu? (Porta Fidei Số 10)
a. Toàn bộ mầu nhiệm cứu độ được Thiên Chúa mạc khải.
b. Năm Đức Tin.
c. Tình yêu của Thiên Chúa .
d. Kinh Tin Kính.

60. Ðể hiểu biết một cách hệ thống về nội dung đức tin, tất cả mọi người đều có thể tìm thấy ở đâu?(Porta Fidei Số 11)
a. Kinh Tin Kính các tông đồ.
b. Các văn kiện của Công Đồng chung  Vatican II.
c. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo.
d. Cả a, b và c đúng.

61. Ðức Chân Phước Gioan Phaolô II đã viết: Sách Giáo lý này sẽ mang lại một đóng góp quan trọng cho công trình gì? (Porta Fidei Số 11)
a. Hòa giải giữa các dân tộc.
b. Phát triển các dân tộc.
c. Canh tân toàn thể đời sống Giáo Hội.
d. Hiệp nhất các tin hữu tin vào Thiên Chúa.

62. Khi tìm hiểu Sách Giáo Lý chúng ta khám phá thấy rằng đức tin được trình bày trong Sách Giáo Lý không phải là một lý thuyết, nhưng là gì?(Porta Fidei Số 11)
a. Một cuộc gặp gỡ với Ðấng sống trong Giáo Hội.
b. Một chương trình sống cụ thể.
c. Một trãi nghiệm của người Kitô.
d. Ân sủng dành cho mỗi người.

63.  Trong Năm Ðức Tin, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo có thể là một dụng cụ đích thực nâng đỡ điều gì?  (Porta Fidei Số 12)
a. Đức tin.
b. Đời sống tinh thần của người trẻ.
c. Kiến thức thực hành hằng ngày.
d. Sự kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô.

64. Đức tin ngày nay đang phải chịu một loạt những vấn nạn đến từ não trạng thay đổi, đặc biệt là những lãnh vực nào? (Porta Fidei Số 12)
a. Khoa học      
b. Nghệ thuật
c. Kỹ thuật     
d. Chỉ có a và c đúng

65. Giáo Hội không bao giờ sợ chứng minh rằng giữa đức tin và khoa học chân chính không hề có xung đột, vì cả hai đều hướng về sự gì? (Porta Fidei Số 12)
a. Nâng cao nhận thức của con người.
b. Sự thật.
c. Giúp đỡ con người trước những thảm họa của thiên nhiên.
d. Cải thiện đời sống của phần đông nhân loại.

66. Một điều quan trọng trong Năm Ðức tin là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người nam nữ là gì? (Porta Fidei Số 13)
a. Làm tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng tá cuộc sống của họ.
b. Sống công bằng bác ái.
c. Sống yêu thương mọi người.
d. Làm giảm nhẹ những đau khở của những người bị bỏ rơi.

67. Một điều quan trọng trong Năm Ðức tin là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch ử tội lỗi phải thúc giục mỗi người phải làm gì? (Porta Fidei Số 13)
a. Hoán cải chân thành và trường kỳ để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha Ðấng đến gặp tất cả mọi người.
b. Từ bỏ tội lỗi của mình.
c. Ăn chay và cầu nguyện cho tội lỗi của mình và của tha nhân.
d. Yêu thương mọi người như chính mình.

68. Trong thời điểm này, chúng ta hãy luôn hướng nhìn về ai,"là nguồn gốc và là tận điểm của đức tin"?(Porta Fidei Số 13?
a. Mẹ Maria.    
b. Thiên Chúa.
c. Chúa Giêsu Kitô.  
d. Đức Giáo Hoàng

69. Năm Ðức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng tá điều gì?  (Porta Fidei Số 14)
a. Bác ái.     
b. Đức tin.
c. Sự hiệp thông.   
d. Sự hiệp nhất.
70. Ðức tin không có đức mến thì không mang lại thành quả và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Ðức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình. Đúng hay sai?  (Porta Fidei Số 14)
a. Đúng      
b. Sai

71. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra điều gì nơi những người đang xin tình thương của chúng ta?(Porta Fidei Số 14)
a. Tôn nhan Chúa Phục sinh.
b. Anh em của mình.
c. Lòng yêu thương.
d. Cả a, b và c đúng.

72. Thánh Phaolô tông đồ yêu cầu môn đệ Timôthê hãy "tìm kiếm đức tin" (Xc 1 Tm 2,22) và chúng ta cảm thấy lời mời gọi này được gửi đến mỗi người chúng ta để làm gì?  (Porta Fidei Số 15)
a. Không ai trong chúng ta trở nên lười biếng trong đức tin.
b. Lớn mạnh trong đức tin.
c. Không mất đức tin.
d. Kiên vững trong đức tin giưa bao cám dỗ thử thách.
73. Ðức tin là bạn đồng hành trong cuộc sống, giúp chúng ta làm gì?  (Porta Fidei Số 15)
a. Nhận thức với một cái nhìn luôn mới mẻ về những kỳ công mà Thiên Chúa thực hiện nơi chúng ta.
b. Đón nhận những dấu chỉ thời đại trong hiện tại của lịch sử.
c. Thúc đẩy mỗi người chúng ta trở thành dấu chỉ sinh động về sự hiện diện của Ðấng Phục Sinh trong thế giới.
d. Cả a, b và c đúng.

74. Cuộc sống của các tín hữu Kitô cảm nghiệm điều gì?  (Porta Fidei Số 15)
a. Sự thanh thản 
b. Niềm vui
c. Đau khổ  
d. Chỉ có b và c đúng.

 75. Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta hãy phó thác thời điểm hồng phúc này cho ai?  (Porta Fidei Số 15)
a. Chúa Cha.
b. Chúa Thánh Thần.
c. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
d. Các Hội Đồng Giám Mục.

.............................................................................................................................


75 CÂU HỎI-ĐÁP HỌC HỎI TÔNG THƯ TỰ SẮC "PORTA FIDEI"


01. Hỏi: Năm Đức Tin lần thứ I diễn ra dưới triều đại Đức Giáo Hoàng nào?
Thưa: Năm Đức Tin lần thứ I diễn ra dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.

02. Hỏi: Năm Đức Tin lần thứ I diễn ra vào năm nào?
Thưa: Năm Đức Tin lần thứ I diễn ra vào năm  1967.

03. Hỏi: Năm Đức Tin lần thứ I kỷ niệm sự kiện gì?
Thưa: Năm Đức Tin lần thứ I kỷ niệm 1900 năm tử đạo của 2 thánh Phêrô và Phaolô tông đồ.

04. Hỏi: Năm Đức Tin lần thứ II diễn ra dưới triều đại Đức Giáo Hoàng nào?
 Thưa: Năm Đức Tin lần thứ II diễn ra dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI.

05. Hỏi: Năm Đức Tin lần thứ II kỷ niệm sự kiện gì?
Thưa: Năm Đức Tin thứ II kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng chung Vatican II; và 20 năm ban hành sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo.

06. Hỏi: Năm Đức Tin sẽ kết thúc vào ngày lễ gì?
Thưa: Năm Đức Tin sẽ kết  thúc vào ngày lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ năm 2013.
07. Hỏi: Công đồng Vatican II được Đức Giáo Hoàng nào khai mạc?
Thưa: Công đồng Vatican II được Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII khai mạc.

08. Hỏi: Công đồng Vatican II được Đức Giáo Hoàng nào bế mạc?
Thưa: Công đồng Vatican II được  Đức Giáo Hoàng Phaolô VI bế mạc.

09. Hỏi: Công đồng Vatican II được khai mạc vào ngày nào?
Thưa: Công đồng Vatican II được khai mạc vào ngày 11 tháng mười năm 1962.

10. Hỏi: Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã quyết định triệu tập Công Ðồng Vatican II, bằng văn kiện nào?
Thưa: Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã quyết định triệu tập Công Ðồng Vatican II bằng Tông huấn Ơn Cứu Ðộ Loài Người ("Humanae Salutis”).

11. Hỏi: Công đồng Vatican II có bao nhiêu văn kiện?
Thưa: Công đồng Vatican II có 16 văn kiện.

12. Hỏi: Công đồng Vatican II có những Hiến Chế nào?
Thưa: - Một là Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium)
- Hai là Hiến chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium)
- Ba là Hiến chế tín lý về Mạc Khải của Thiên Chúa (Dei Verbum)
- Bốn là Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et Spes)

13. Hỏi: Công đồng Vatican II có những Tuyên ngôn nào?
Thưa: - Một là Tuyên ngôn về giáo dục Kitô giáo (Gravissimum Educationis)
- Hai là Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo (Nostra Aetate)
- Ba là Tuyên ngôn về tự do tôn giáo (Dignitatis Humanae)

14. Hỏi: Hiến chế là gì?
Thưa: Hiến chế là Bản văn của Công Đồng chung về Tín lý hay Mục vụ. Hiến chế có hiệu lực như một sắc luật cho cả Giáo Hội.

15. Hỏi: Tuyên ngôn là gì?
Thưa: Tuyên ngôn là văn kiện của Tòa Thánh giải thích một đạo luật ban hành hay quảng diễn một vấn đề.

16. Hỏi: Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được Đức Giáo Hoàng nào công bố?
Thưa: Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố.

17. Hỏi: Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được công bố năm nào?
Thưa: Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được công bố năm 1992.

18. Hỏi: Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được công bố với văn kiện gì?
Thưa: Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được công bố với Tông Hiến ‘Kho Tàng Đức Tin’ (Fidei Depositum ).

19. Hỏi: Hội Thánh toàn cầu sẽ khai mạc Năm Đức Tin vào ngày 11 tháng Mười năm 2012, nhân kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng Chung Vatican II, tại Việt Nam ngày khai mạc Năm Đức Tin chung ở Giáo Hội Việt Nam sẽ cử hành vào ngày nào?
Thưa: Ở cấp Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Năm Đức Tin sẽ được khai mạc vào ngày 12 tháng Mười năm 2012.

20. Hỏi: Ngày khai mạc Năm Đức Tin ở các Giáo Phận là ngày nào?
Thưa: Ngày khai mạc Năm Đức Tin cấp giáo phận là vào ngày Lễ thánh Luca Tông đồ (Ngày 18 tháng 10 năm 2012)

21. Hỏi: Ngày khai mạc Năm Đức Tin tại các Giáo xứ là ngày nào?
Thưa: Ngày khai mạc Năm Đức Tin trong toàn thể các giáo xứ toàn quốc là vào ngày Lễ Khánh nhật truyền giáo (Ngày 21 tháng 10 năm 2012).

22. Hỏi: Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ Giáo Lý Đức Tin thì đối với mọi tín hữu, Năm Đức Tin sẽ đem lại một cơ hội tốt để làm gì?
Thưa: - Một là học hỏi kỹ lưỡng những văn kiện chính của Công đồng Vatican II
- Hai là nghiên cứu sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo.

23. Hỏi: Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ Giáo Lý Đức Tin ở cấp giáo xứ, mọi tín hữu được mời gọi làm gì?
Thưa: Mọi tín hữu được mời gọi chuẩn bị Năm Đức Tin bằng cách chuyên chú đọc và suy ngẫm Tự sắc Cánh cửa đức Tin (Porta Fidei) của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI.

24. Hỏi: Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ Giáo Lý Đức Tin các giáo lý viên cần phải làm gì?
Thưa: Các giáo lý viên cần khai thác hơn nữa giáo thuyết phong phú của sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo, đồng thời dưới sự hướng dẫn của cha sở, giúp các nhóm tín hữu đọc / và cùng tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của văn kiện quý báu này, để hình thành những cộng đoàn đức tin nhỏ, làm chứng về Chúa Giêsu.

25. Hỏi: Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ Giáo Lý Đức Tin, trong Năm Đức Tin, tu sĩ các Hội dòng và hội viên các Tu đoàn tông đồ được mời gọi làm gì?
Thưa : Họ được mời gọi dấn thân vào công cuộc tân Phúc âm hóa qua việc gắn bó mật thiết hơn nữa với Chúa Giêsu, theo đặc sủng riêng của mình / và trung thành với Đức Thánh Cha cũng như với giáo lý đúng đắn.

26. Hỏi: Trong cuộc hội thảo từ ngày mồng 10 đến 13 tháng 7 năm 2012, Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam / đã chọn chủ đề nào cho người trẻ sống Năm Đức Tin?
Thưa: Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam / đã chọn chủ đề cho người trẻ sống Năm Đức Tin là : ‘Cho niềm tin tươi sáng’.

27. Hỏi: Câu Thánh Kinh của  Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam / đã chọn cho người trẻ sống Năm Đức Tin này là gì?
Thưa: Câu Thánh Kinh của Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam/ đã chọn cho người trẻ sống Năm Đức Tin là : “Tôi biết tôi tin vào ai” (2 Tm 1,12).

28. Hỏi: Ủy ban mục vụ Giới trẻ của HĐGM Việt Nam đã chọn cử hành ngày giới trẻ trong Năm Đức Tin tại các Giáo Phận, Giáo xứ vào ngày nào?
Thưa: Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ đã chọn ngày 13 tháng 3 năm 2013.

29. Hỏi. Trong cuộc Hội thảo do Uỷ ban Mục Vụ Giới trẻ tổ chức tại Hải Phòng (từ 10 đến 12-7-2012) Đức Gm. Giuse Vũ Văn Thiên nhắc lại lời của  Đức Thánh Cha đã viết là: “Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người nam nữ để làm tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng tá cuộc sống của họ, còn lịch sử tội lỗi phải thúc giục mỗi người hoán cải chân thành và trường kỳ để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha Đấng đến gặp tất cả mọi người” (Porta Fidei, số 13). Duyệt lại đức tin có nghĩa là gì?
Thưa :
-  Một là học hỏi giáo lý.
- Hai là việc nhận ra vị trí của Chúa trong đời mình.
- Ba là việc thể hiện đức tin trong cuộc sống thường ngày.

30. Hỏi. “Duyệt lại đức tin” trước hết là học hỏi giáo lý nghĩa là gì?
Thưa: Vì kiến thức “chắp vá” và rời rạc nên nhiều bạn trẻ dễ mất đức tin. Những bạn trẻ xa quê thường rơi vào hai tình huống: một là mất hẳn đức tin; hai là mang một đức tin biến dạng, tổng hợp pha lẫn mê tín dị đoan. Chính vì đức tin lung lạc, mà bạn trẻ quan niệm lệch lạc về tính dục, về luân lý và về thực hành đức tin (đi lễ, lãnh nhận các bí tích…)

31. Hỏi: “Duyệt lại đức tin” còn là việc nhận ra vị trí của Chúa trong đời mình nghĩa là thế nào?
Thưa: Câu hỏi mà Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ: “Các anh bảo Thầy là ai?” luôn mang tính hiện tại đối với các tín hữu. Khi nghiêm túc nhìn lại cách sống đức tin của mình, bạn trẻ nhận ra Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống. Sự hiện diện của Chúa giúp cho bạn trẻ niềm vui và niềm hăng say phấn khởi phụng sự Ngài. Khi cố gắng trả lời câu hỏi “Đức Giêsu là ai?’, người tín hữu cũng cần xác định mình là ai trong mối tương quan với Chúa và với anh chị em, để nhờ đức tin thấm đượm vào cuộc đời, họ được biến đổi nên giống Đấng mà họ tin theo.

32. Hỏi: “Duyệt lại đức tin” còn là việc thể hiện đức tin trong cuộc sống thường ngày nghĩa là gì?
Thưa: Như thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17). Ngày nay, nhiều bạn trẻ sống ích kỷ, khép kín, thiếu tinh thần trách nhiệm nên nhiều tệ nạn xã hội gia tăng … và trong đó thi thoảng cũng có những bạn trẻ là Kitô hữu.

33. Hỏi: Trong Tông thư Năm Đức Tin, Đức Giáo Hoàng đã dùng từ "Cánh cửa đức tin". Từ này được trích từ sách nào? (Porta Fidei Số 1)  
Thưa: Từ "Cánh cửa đức tin" được trích từ Sách Công vụ tông đồ (Xc Cv 14,27).

34. Hỏi: "Cánh cửa đức tin" dẫn vào đời sống hiệp thông với Thiên Chúa và vào Giáo Hội vẫn luôn mở rộng cho chúng ta. Việc bước qua cánh cửa ấy kèm theo sự gì? (Porta Fidei Số 1)
Thưa: Việc bước qua cánh cửa ấy kèm theo sự dấn thân trong một hành trình kéo dài suốt đời.

35. Hỏi: Đức Giáo Hoàng luôn nhắc nhở về sự cần thiết phải tái khám phá hành trình đức tin / để ngày càng làm nổi bật niềm vui / và lòng hăng say phấn khởi được đổi mới nhờ được gặp gỡ ai? (Porta Fidei Số 2)
Thưa: Gặp gỡ Chúa Giêsu

36. Hỏi: Giáo Hội và các vị Mục Tử phải giống như ai, để dẫn đưa con người ra khỏi sa mạc, tiến đến sự sống, hướng về tình bạn với Con Thiên Chúa, về Ðấng ban cho chúng ta sự sống, sự sống sung mãn? (Porta Fidei Số 2)
Thưa: "Giáo Hội và các vị Mục Tử trong Giáo Hội, giống như Chúa Kitô, phải lên đường, để dẫn đưa con người ra khỏi sa mạc, tiến đến sự sống, hướng về tình bạn với Con Thiên Chúa, về Ðấng ban cho chúng ta sự sống, sự sống sung mãn".
37. Hỏi: Chúng ta không thể chấp nhận để cho muối trở nên nhạt / và ánh sáng bị che kín (Xc Mt 5,13-16). Cả con người ngày nay cũng có thể tái cảm thấy nhu cầu như người phụ nữ xứ Samaria đến giếng nước để làm gì? (Porta Fidei Số 3)
Thưa: - Một là lắng nghe Chúa Giêsu, Ðấng mời gọi
- Hai là hãy tin nơi Chúa Giêsu
- Ba là kín múc nơi nguồn mạch của Chúa Giêsu vọt lên dòng nước sự sống.

38. Hỏi: Chúng ta phải tìm lại sở thích nuôi dưỡng mình bằng điều gì? (PF Số 3)
Thưa: Chúng ta phải tìm lại sở thích nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa và Bánh Sự Sống.

39. Hỏi: Giáo huấn của Chúa Giêsu vẫn còn vang dội mạnh mẽ ngày nay như trước đây: "Các con hãy cố gắng làm việc không phải để được lương thực mau qua, nhưng là lương thực tồn tại mãi mãi" (Ga 6,27). Câu hỏi mà những người nghe Chúa nêu lên cũng là thắc mắc đối với chúng ta ngày nay và chúng ta biết câu trả lời của Chúa Giêsu: "Công việc của Thiên Chúa là: Anh em hãy tin nơi Ðấng mà Ngài đã sai đến" (Ga 6,29). Vì thế, tin nơi Chúa Giêsu Kitô đó là gì? (Porta Fidei Số 3)
Thưa: Tin nơi Chúa Giêsu Kitô / đó là con đường để có thể đạt tới ơn cứu độ một cách vĩnh viễn.

40. Hỏi: Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI quyết định ấn định Năm Ðức Tin sẽ bắt đầu từ ngày nào? (Porta Fidei Số 4)
Thưa: Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI quyết định ấn định Năm Ðức Tin sẽ bắt đầu từ ngày 11 tháng Mười năm 2012.

41. Hỏi: Trong Năm Đức Tin này / Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI sẽ triệu tập một Thượng Hội Đồng Giám Mục vào tháng 10 năm 2012 với đề tài gì? (Porta Fidei Số 4)
Thưa: Trong Năm Đức Tin này / Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI sẽ triệu tập một Thượng Hội Đồng Giám Mục vào tháng 10 năm 2012 với đề tài là / ‘Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin Kitô’.

42. Hỏi: Khởi sự Năm Ðức Tin trùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican II / có thể là một cơ hội thích hợp để chúng ta làm gì? (Porta Fidei Số 5)
Thưa: Để chúng ta hiểu rằng / các văn kiện Công đồng, được các Nghị Phụ để lại như gia sản, "không bị mất giá trị, cũng như vẻ tươi sáng".

43. Hỏi: Để hiểu các văn kiện của Công đồng, chúng ta cần đọc các văn kiện ấy thế nào? (Porta Fidei Số 5)
Thưa: Để hiểu các văn kiện của Công đồng, chúng ta cần đọc các văn kiện ấy một cách thích hợp, cần biết rõ và hấp thụ các văn kiện ấy / như những văn bản giá trị / và có tính chất qui phạm của Huấn Quyền Hội Thánh, giữa lòng Truyền Thống của Giáo Hội.
44. Hỏi: Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI cảm thấy nghĩa vụ phải nêu cao Công đồng như là gì? (Porta Fidei Số 5)
Thưa: Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI cảm thấy nghĩa vụ phải nêu cao Công đồng / như là hồng ân lớn lao mà Giáo Hội được hưởng trong thế kỷ 20 : trong đó chúng ta được một địa bàn chắc chắn / để định hướng trong con đường của thế kỷ đang mở ra.

45. Hỏi: Chính cuộc sống giữa trần thế, các tín hữu được mời gọi làm cho Lời Chân lý mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta được thế nào?(Porta Fidei Số 6)
Thưa: Được chiếu sáng rạng ngời.

46. Hỏi: Từ sức mạnh của Chúa phục sinh, Giáo Hội kín múc năng lực để làm gì? (Porta Fidei Số 6)
Thưa: Từ sức mạnh của Chúa phục sinh, Giáo Hội kín múc năng lực / để kiên trì và yêu thương / khắc phục những sầu muộn và khó khăn / và để tỏ lộ mầu nhiệm về Chúa, giữa lòng thế giới, một cách trung thực cho đến khi mầu nhiệm ấy được tỏ lộ / trong ánh sáng sung mãn vào cuối thời gian.

47. Hỏi: Năm Ðức Tin là một lời mời gọi thực hiện một cuộc trở về cùng Chúa là ai? (Porta Fidei Số 6)
Thưa: Năm Ðức Tin là một lời mời gọi thực hiện một cuộc trở về cùng Chúa / là Ðấng duy nhất cứu độ thế giới

48. Hỏi: Tình yêu của ai thúc bách chúng ta? (Porta Fidei Số 7)
Thưa: Tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta (2 Cr 5,14).

49. Hỏi: "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta" : chính tình yêu Chúa Kitô làm đầy tâm hồn chúng ta và thúc đẩy chúng ta làm gì?(Porta Fidei Số 7)
Thưa: "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta" : chính tình yêu Chúa Kitô làm đầy tâm hồn chúng ta và thúc đẩy chúng ta Loan báo Tin Mừng.

50. Hỏi: Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta hãy đọc những tác phẩm của ai để tiến tới "cánh cửa đức tin".(Porta Fidei Số 7)
Thưa: Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta hãy đọc những tác phẩm của Thánh Augustinô để tiến tới "cánh cửa đức tin".

51. Hỏi: Trong dịp kỷ niệm tốt đẹp này, Đức Giáo Hoàng muốn mời gọi các Giám Mục trên toàn thế giới / hãy hiệp với Người Kế Vị Thánh Phêrô, trong thời điểm ân phúc thiêng liêng mà Chúa ban cho chúng ta, để tưởng niệm điều gì?(Porta Fidei Số 8)
Thưa: Để tưởng niệm Hồng ân đức tin quí giá.
52. Hỏi: Đức Giáo Hoàng kêu gọi cần gia tăng suy tư về đức tin để giúp tất cả các tín hữu của Chúa Kitô ý thức hơn và củng cố lòng gắn bó với với điều gì?(PF Số 8)
Thưa: Đức Giáo Hoàng kêu gọi cần gia tăng suy tư về đức tin / để giúp tất cả các tín hữu của Chúa Kitô ý thức hơn và củng cố lòng gắn bó với Tin Mừng.

53. Hỏi: Trong Năm Ðức Tin này, Đức Giáo Hoàng kêu gọi các cộng đoàn dòng tu cũng như các giáo xứ, và toàn thể các tổ chức Giáo Hội / hãy tìm cách làm cho việc tuyên xưng kinh gì một cách công khai? (Porta Fidei Số 8)
Thưa: Tuyên xưng Kinh Tin Kính.

54. Hỏi: Chúng ta mong muốn rằng Năm Ðức Tin khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng gì? (Porta Fidei Số 9)
Thưa: Chúng ta mong muốn rằng / Năm Ðức Tin khơi dậy nơi mỗi tín hữu / khát vọng Tuyên xưng đức tin trọn vẹn / và với xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng.

55. Hỏi: Năm Đức Tin sẽ là một cơ hội thích hợp / để tăng cường việc cử hành đức tin trong phụng vụ, đặc biệt là trong Bí tích gì? (Porta Fidei Số 9)
Thưa: Trong Thánh Thể, vốn là 'tột đỉnh mà hoạt động của Giáo Hội hướng tới / và đồng thời cũng là nguồn mạch /  từ đó phát sinh toàn thể năng lực của Giáo Hội"

56. Hỏi: Trong Năm Ðức Tin này / sự quyết tâm mà mỗi tín hữu phải biến thành của mình khi tái khám phá điều gì? (PF Số 9)
Thưa: Trong Năm Ðức Tin này / sự quyết tâm mà mỗi tín hữu phải biến thành của mình /  khi tái khám phá nội dung đức tin được tuyên xưng, cử hành, sống và cầu nguyện / và suy tư về chính hành động đức tin.

57. Hỏi: Điều gì chỉ rằng hành vi đầu tiên ta đạt đến đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa / và tác động của ơn thánh hành động  / và biến đổi con người ngay từ nội tâm? (Porta Fidei Số 10)
Thưa: Đó là con tim.

58. Hỏi: Việc tuyên xưng ngoài miệng cho thấy đức tin bao gồm những việc gì? (Porta Fidei Số 10)
Thưa: Việc tuyên xưng ngoài miệng / cho thấy đức tin bao gồm việc làm chứng và sự dấn thân công khai.

59. Hỏi: Việc hiểu biết đức tin dẫn chúng ta vào đâu? (Porta Fidei Số 10)
Thưa: Việc hiểu biết đức tin dẫn chúng ta vào toàn bộ mầu nhiệm cứu độ được Thiên Chúa mạc khải.

60. Hỏi: Ðể hiểu biết một cách hệ thống về nội dung đức tin, tất cả mọi người đều có thể tìm thấy ở đâu? (Porta Fidei Số 11)
Thưa: Ðể hiểu biết một cách hệ thống về nội dung đức tin, tất cả mọi người đều có thể tìm thấy trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo.

61. Hỏi: Ðức Chân Phước Gioan Phaolô II đã viết : Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo này sẽ mang lại một đóng góp quan trọng cho công trình gì? (Porta Fidei Số 11)
Thưa: Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo này sẽ mang lại một đóng góp quan trọng cho công trình Canh tân toàn thể đời sống Giáo Hội.

62. Hỏi: Khi tìm hiểu Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo / chúng ta khám phá thấy rằng / đức tin được trình bày trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo không phải là một lý thuyết, nhưng là gì? (PF  11)
Thưa: Là một cuộc gặp gỡ với Ðấng sống trong Giáo Hội.

63. Hỏi: Trong Năm Ðức Tin, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo có thể là một dụng cụ đích thực nâng đỡ điều gì? (Porta Fidei Số 12)
Thưa: Trong Năm Ðức Tin, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo có thể là một dụng cụ đích thực nâng đỡ đức tin.

64. Hỏi: Đức tin ngày nay đang phải chịu một loạt những vấn nạn đến từ não trạng thay đổi, đặc biệt là những lãnh vực nào? (Porta Fidei Số 12)
Thưa: Là lãnh vực những chinh phục của khoa học và kỹ thuật.

65. Hỏi: Giáo Hội không bao giờ sợ chứng minh rằng giữa đức tin và khoa học chân chính không hề có xung đột, vì cả hai đều hướng về sự gì? (Porta Fidei Số 12)
Thưa: Vì cả hai đều hướng về sự thật tuy là bằng những con đường khác nhau.

66. Hỏi: Một điều quan trọng trong Năm Ðức Tin là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người nam nữ là gì? (Porta Fidei Số 13)
Thưa: Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người nam nữ / để làm tăng trưởng / và phát triển cộng đoàn bằng chứng tá cuộc sống của họ.

67. Hỏi: Một điều quan trọng trong Năm Ðức tin là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử tội lỗi phải thúc giục mỗi người phải làm gì? (Porta Fidei Số 13)
Thưa: Lịch sử tội lỗi phải thúc giục mỗi người hoán cải chân thành và trường kỳ  / để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha  /  Ðấng đến gặp tất cả mọi người.

68. Hỏi: Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy luôn hướng nhìn về ai, "là nguồn gốc và là tận điểm của đức tin" ?(PF Số 13)
Thưa: Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy luôn hướng nhìn về Chúa Giêsu Kitô, "là nguồn gốc và là tận điểm của đức tin".

69. Hỏi: Năm Ðức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng tá điều gì? (Porta Fidei Số 14)
Thưa: Năm Ðức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng tá Bác ái.

70. Hỏi: Ðức tin và đức mến có liên hệ gì với nhau? (Porta Fidei Số 14)
Thưa: Ðức tin không có đức mến thì không mang lại thành quả / và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Ðức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình.

71. Hỏi: Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra điều gì nơi những người đang xin tình thương của chúng ta? (Porta Fidei Số 14)
Thưa: Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra Tôn nhan Chúa phục sinh / nơi những người đang xin tình thương của chúng ta. 

72. Hỏi: Thánh Phaolô tông đồ yêu cầu môn đệ Timôthê hãy "tìm kiếm đức tin" (Xc 1 Tm 2,22) và chúng ta cảm thấy lời mời gọi này được gửi đến mỗi người chúng ta để làm gì? (Porta Fidei Số 15)
Thưa: Để không ai trong chúng ta trở nên lười biếng trong đức tin.

73. Hỏi: Ðức tin là bạn đồng hành trong cuộc sống, giúp chúng ta làm gì? (Porta Fidei Số 15)
Thưa: - Một là giúp chúng ta nhận thức với một cái nhìn luôn mới mẻ / về những kỳ công mà Thiên Chúa thực hiện nơi chúng ta.
- Hai là giúp chúng ta đón nhận những dấu chỉ thời đại trong hiện tại của lịch sử.
- Ba là thúc đẩy mỗi người chúng ta  / trở thành dấu chỉ sinh động / về sự hiện diện của Ðấng Phục Sinh trong thế giới.

74. Hỏi: Cuộc sống của các tín hữu Kitô cảm nghiệm điều gì? (Porta Fidei Số 15)
Thưa: Cuộc sống của các tín hữu Kitô cảm nghiệm cả niềm vui lẫn đau khổ.

75. Hỏi: Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI mời gọi chúng ta hãy phó thác thời điểm hồng phúc này cho ai? (Porta Fidei Số 15)
Thưa: Cho Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, được tuyên xưng là "người có phúc" vì Mẹ 'đã tin' (Lc 1,45).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét