Ý
Nghĩa của biểu tượng (logo) Năm Đức Tin:
1. Con thuyền là biểu tượng của Giáo
hội Công giáo hoàn vũ.
2. Cột buồm chính có biểu tượng là cây
Thánh Giá với mảnh buồm căng gió có ghi hàng chữ IHS có nghĩa là Đức Chúa Kitô.
3. Cánh buồm hình tròn là biểu tượng cho
Mình Thánh Chúa.
KINH NĂM ĐỨC TIN
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là
Thiên Chúa toàn năng hằng hữu,/ chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con ơn
đức tin,/ nhờ đó chúng con được nhận biết và thực hành những điều Chúa dạy, /
hầu đem lại cho chúng con hạnh phúc đời này và đời sau.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa là
đường, là sự thật và là sự sống./ Ai tin Chúa sẽ tìm thấy đường đi, tìm ra chân
lý và tìm được sự sống./ Chúng con cảm tạ Chúa đã đến rao giảng Tin Mừng,/ dạy
chúng con những điều phải tin, những việc phải làm, / để được sống và sống dồi
dào./
Xin nâng đỡ đức tin yếu kém
của chúng con,/ để chúng con luôn biết tín thác vào tình thương của Chúa, / sẵn
sàng dấn thân loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo, theo lệnh Chúa truyền.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng
hướng dẫn mọi loài,/ xin khơi lại cho chúng con những điều chúng con phải tin,/
những việc phải làm / để đức tin của chúng con mỗi ngày thêm sâu sắc và trưởng
thành hơn./ Xin ban cho chúng con biết can đảm tuyên xưng đức tin trước mặt mọi
người,/ biết ý thức cử hành đức tin trong các nghi lễ phụng vụ,/ thực hành đức
tin trong cuộc sống hằng ngày, / để có thể thông truyền đức tin đó lại cho con
cháu,/ và tất cả mọi người, đặc biệt là những người chưa nhận biết Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ được chúc
phúc vì đã tin./ Xin giúp chúng con luôn tin những lời Chúa dạy và Hội Thánh
truyền,/ biết phó thác mọi sự cho tình yêu quan phòng của Chúa,/ biết quan tâm
đến nhu cầu của mọi người anh chị em chung quanh chúng con,/ nhờ đó họ sẽ được
nhận biết Chúa,/ để chính họ cũng nhận được ơn đức tin đem lại sự sống đời đời.
Lạy Thánh Cả Giuse, các Thánh
Tử đạo Việt Nam cùng toàn thể các Thánh,/ các ngài là những những gương mẫu
sống động về đức tin cho chúng con./ Xin giúp chúng con biết sống / và thực
hành đức tin của chúng con trong cuộc sống hằng ngày,/ nhất là trong Năm Đức
Tin này.
Chúc tụng Thiên Chúa vinh hiển
muôn đời. / Amen!
.................................................................................................................................
Mười Cách Để Sống Năm Đức Tin
Để làm nổi bật kỷ niệm 50 năm
Công đồng Vatican II và 20 năm phát hành Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo,
Đức Bênêđictô XVI đã công bố Năm Đức Tin, bắt đầu vào ngày 11 tháng 10 và kết
thúc vào ngày 24 tháng 11 năm 2013. Năm Đức Tin nhằm củng cố đức tin cho người
Công giáo và qua gương mẫu của họ đưa thế giới đến với đức tin.
Đức Cha David Ricken của Giáo
phận Green Bay , chủ tịch Uỷ ban Truyền giáo và
Giáo lý trực thuộc Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, đề nghị “10 cách để sống Năm Đức
Tin”. Các đề nghị này được lấy từ những hướng dẫn của Bộ Giáo lý Đức tin, vài
đề nghị trong số này đã là những đòi hỏi dành cho người Công giáo; những điểm
khác có thể được người công giáo thực hiện vào mọi lúc và đặc biệt trong Năm
Đức Tin:
1. Tham dự Thánh Lễ.
Năm Đức Tin có ý thăng tiến việc mỗi người gặp gỡ Chúa Giêsu. Điều này xảy ra
hầu như ngay lập tức nơi Bí tích Thánh Thể. Tham dự Thánh Lễ thường xuyên làm
đức tin tăng trưởng qua Kinh Thánh, Kinh Tin Kính, các lời nguyện, Thánh nhạc,
bài giảng, việc rước lễ và thông phần với cộng đoàn đức tin.
2. Đi xưng tội. Giống như đi dự lễ, người Công giáo tìm
thấy sức mạnh và đào sâu đức tin của mình qua việc tham dự Bí tích Sám Hối và
Hoà Giải. Việc xưng tội thúc đẩy con người quay về với Thiên Chúa, diễn tả lòng
đau xót vì đã sa ngã và mở đời sống mình cho quyền năng chữa lành của Thiên
Chúa. Việc xưng tội tha thứ những tổn thương của quá khứ và ban sức mạnh cho
tương lai.
3. Học hỏi đời sống của các
thánh. Các thánh là những
gương mẫu vượt thời gian về cách sống đời Kitô hữu, và các ngài giúp cho niềm
hy vọng được tiếp diễn không ngừng. Các ngài không chỉ là những tội nhân đã
liên tục cố gắng gần gũi với Thiên Chúa, mà còn là ví dụ điển hình những cách
thức mà một người có thể phụng sự Thiên Chúa: qua việc giảng dạy, truyền giáo,
bác ái, cầu nguyện và đơn sơ cố gắng làm đẹp lòng Thiên Chúa trong các hoạt
động và quyết định bình thường của đời sống hằng ngày.
4. Đọc Kinh Thánh mỗi ngày. Kinh Thánh cung cấp con đường trực tiếp
đến với Lời Thiên Chúa và kể về lịch sử ơn cứu độ con người. Người Công giáo có
thể cầu nguyện bằng Kinh Thánh (bằng
phương pháp lectio divina hoặc các phương pháp khác) để trở nên hòa hợp hơn với Lời Thiên
Chúa. Nói cách khác, Kinh Thánh là một điều đòi buộc để trưởng thành trong Năm
Đức Tin.
5. Đọc các văn kiện của
Công đồng Vatican II. Công đồng Vatican II (1962-65) mở ra một cuộc canh tân vĩ
đại cho Giáo Hội. Công đồng định hình cách cử hành Thánh Lễ, vai trò của giáo
dân, cách Giáo Hội hiểu về chính mình, tương quan của mình với những Kitô hữu
khác và những người không phải Kitô hữu. Để tiếp tục cuộc canh tân này, người
công giáo phải hiểu những điều Công đồng dạy và cách thức làm cho đời tín hữu
nên phong phú.
6. Học Giáo lý.
Được xuất bản đúng 30 năm sau khi Công đồng khai mạc, Sách Giáo lý của Hội
Thánh Công Giáo bao trùm những điều phải tin, các giáo huấn luân lý, việc cầu
nguyện và các bí tích của Hội Thánh Công Giáo trong một quyển duy nhất. Đó là
nguồn giúp gia tăng sự hiểu biết đức tin. Một nguồn hữu ích khác là Sách Giáo
lý Công giáo của Hoa Kỳ dành cho người trưởng thành (USCCA).
7. Tham gia các sinh hoạt
của giáo xứ. Năm Đức Tin
không thể chỉ có việc học hỏi và suy niệm. Sự hiểu biết vững chắc về Kinh
Thánh, Công đồng và Giáo lý phải chuyển thành hành động. Giáo xứ là một nơi
tuyệt vời để bắt đầu, và ơn riêng của mỗi người giúp xây dựng cộng đoàn. Mọi
người được mời gọi tham gia các việc như tiếp tân, ca hát trong phụng vụ, đọc
sách, giáo lý viên, và các vai trò khác trong đời sống giáo xứ.
8. Giúp những người khốn
khó. Toà Thánh khích lệ
người Công giáo đóng góp cho việc bác ái và tình nguyện giúp đỡ người nghèo
trong Năm Đức Tin. Điều này có ý làm cho mỗi cá nhân gặp được Chúa Kitô nơi
người nghèo, người sống bên lề xã hội và những người dễ bị tổn thương. Giúp đỡ
người khác khiến cho người Công giáo diện đối diện với Chúa Kitô và tạo nên một
gương mẫu cho những người khác trong thế gian này.
9. Mời một người bạn đến dự
Thánh Lễ. Năm Đức Tin có tính toàn cầu, tập trung vào việc canh tân đức tin
và việc truyền giáo của toàn thể Hội Thánh, tuy nhiên sự thay đổi thật sự xảy
ra ở bình diện địa phương. Một lời mời cá nhân có thể làm thay đổi hoàn toàn
một người nào đó đang xa rời đức tin hoặc cảm thấy xa lạ với Hội Thánh. Ai cũng
quen biết những người như thế, do đó ai cũng có thể gởi đi một lời mời gọi yêu
thương.
10. Làm cho các mối phúc
thấu nhập vào đời sống hằng ngày. Các mối phúc (Matthêu
5,3-12) vạch nên một kế hoạch chi tiết phong phú cho việc sống đời Kitô
hữu. Các mối phúc chứa đựng sự khôn ngoan giúp cho mọi người khiêm tốn hơn,
kiên nhẫn hơn, công bằng hơn, trong sáng hơn, yêu thương hơn, tha thứ nhiều hơn
và tự do hơn. Đó chính là mẫu đức tin sống động, cần có để lôi kéo người ta đến
với Hội Thánh trong năm sắp tới.
Biên dịch: Lm. Phêrô Lê Tấn Bảo
..................................................................................................................
Sinh viên với Năm Đức Tin
trước những thách đố của thời đại
Đức Tin là một hồng ân. Một
hồng ân thiêng liêng, vô giá mà Thiên Chúa dành tặng cho con người. Nhưng để
Đức Tin được triển nở và vững mạnh cần có sự đáp trả của con người, nghĩa là về
phía con người đi tìm chân lý, còn về phía Thiên Chúa đã, đang và luôn ban ánh
sáng đặc biệt để dẫn dắt con người. Ánh sáng soi đường đó chính là Đức Giêsu
Kitô.
Tuy nhiên, với cuộc sống đôi lúc khiến chúng ta xác tín
các thực tại đang đối diện hay những chủ nghĩa duy lý làm cho Đức Tin bị “méo
mó” đi. Bởi thế, khi mà cả thế giới đang trong thời kỳ “toàn cầu hóa”, thì hơn
bao giờ hết, Đức Tin đóng tầm quan trọng, là điều căn cốt trong cuộc sống con
người, cách riêng là những người trẻ - những sinh viên với cuộc sống xa nhà.
Liệu rằng, trước những thách đố của thời đại, thế hệ trẻ có giữ được lửa cho
ngọn đuốc Đức Tin luôn cháy sáng để soi dẫn chúng ta tiến bước trên con đường
tìm về, gắn kết với Thiên Chúa và để Ngài sống trong ta?
Trải dài với thời gian, Đức
Tin vẫn là một hồng ân mà Thiên Chúa tuôn đổ vào mỗi người để chúng ta sống một
cuộc sống đích thực giữa trần thế. Nhưng trong bối cảnh xã hội bây giờ, dưới
góc cạnh của một sinh viên, thử hỏi mỗi chúng ta có còn giữ cho mình một Đức
Tin bền vững và tinh tuyền như ngày ban đầu mà Thiên Chúa trao ban? Thực sự sẽ
khó, rất khó khi mà xã hội và con người ngày nay đang cố chối bỏ những ý Thiên
Chúa muốn ra khỏi cuộc sống, khỏi suy nghĩ và khỏi trái đất này. Sẽ là thách đố
lớn với những đôi chân còn non trẻ, những con người mới hòa mình vào xã hội,
giữa một đô thị phồn vinh, quanh những trò tiêu khiển hấp dẫn, và đầy những xu
hướng đam mê, hưởng thụ mời mọc.
Với những suy tư đó, cách
riêng là trong Năm Đức Tin này, chúng ta cùng nhìn lại một số yếu tố gây “cản
trở” và làm “lu mờ” đi Đức Tin của mỗi người sinh viên.
Sự thay đổi môi trường sống
Phần lớn sinh viên xuất thân
từ những miền quê, nơi có những ngôi làng nhỏ, có gia đình, người thân và bạn
bè từ lúc mới lớn... Trái lại, những trường đại học, cao đẳng, trung cấp...
thường chỉ có ở những thành phố và thủ đô lớn. Khi mang trên mình tên gọi sinh
viên thì đồng nghĩa với việc ta đi đến một môi trường mới, xa gia đình, làng
xóm với một cuộc sống hoàn toàn tự lập.
Dưới chiều kích Đức Tin, sự
thay đổi môi trường ảnh hưởng rất lớn đến niềm tin Kitô giáo của mỗi sinh viên.
Từ chỗ xung quanh là những người có đạo, gần nhà thờ, bên người thân, chúng ta
được hướng dẫn, thúc đẩy về đời sống thiêng liêng thì nay bước vào môi trường
“đa chiều”, phải sống giữa những bạn bè không cùng tôn giáo, nơi trường học,
trong xóm trọ, và xa cách bóng dáng của những ngôi thánh đường.
Những điều đó ắt hẳn sẽ phần
nào ảnh hưởng tới cuộc sống tâm linh của mỗi sinh viên. Sâu xa hơn, ngày xưa
những lời kinh sáng tối vang lên nơi gia đình, trong nhà thờ, nay thì sao?
Tiếng kinh, lời nguyện thưa dần trong đêm vắng? Những thánh lễ sáng, giờ Chầu
Thánh Thể ban tối hằng ngày nay còn tham dự thường xuyên? Hay chỉ với một thánh
lễ Chúa nhật là đủ, xem như “hoàn thành nhiệm vụ”. Hơn thế nữa, môi trường mới
dễ làm ta xa Chúa và bị “hòa tan” trong cả tư tưởng, lối sống khi ngày lại ngày
ta tiếp xúc với những người xung quanh nơi xóm trọ, giảng đường, trên con
phố... Sẽ là khó để giữ được một Đức Tin tinh ròng như những ngày bên cha, bên
mẹ, bên những người anh em, nơi giáo họ, giáo xứ...
Hòa nhập xã hội
Thay đổi môi trường sống đi
liền với việc hòa nhập xã hội. Nhưng mỗi sinh viên đang hòa nhập hay là hòa tan
mình vào cái thời kì kinh tế thị trường này? Có thể nói, lối sống của thời toàn
cầu hoá là lối sông mở. Quan niệm về luân lý cũng biến đổi nhiều so với sự đổi
thay của môi trường sống là nơi diễn ra những khác biệt về kinh tế xã hội,
chủng tộc, văn hóa giới tính... Tạo nên những thách đố khác nhau gây ảnh hưởng
trực tiếp đến Đức Tin của chúng ta. Một Giám mục Á châu có lý khi ví “toàn
cầu hoá như một luồng gió mát lạnh đem đến nhiều lợi ích và thỏa mái, mà chúng
ta cần mở rộng cửa để đón nhận. Mặc dù, đôi khi nó cũng mang chướng khí, bão tố
và một vài con muỗi”!
Những sự thay đổi đó đánh dấu
sự phát triển của xã hội và con người. Nhưng chúng ta có thể thấy, điều căn bản
nhất mà dường như xã hội đang lãng quên và đánh mất đó là đạo đức và nhân bản
của con người. Không những đánh mất mà còn xuất hiên thêm những yếu tố đối lập
với những giá trị nền tảng đó. Sinh viên là những người trẻ, sự thích nghi với
cuộc sống rất nhanh, nhưng phần lớn lại không làm chủ được mình, bị cuốn vào
vòng xoáy của xã hội, dẫn đến họ cũng đã và đang xem thường những giá trị cốt
lõi đó. Yêu thử, sống thử... tỷ lệ phá thai ở tuổi trẻ ngày càng cao và còn
chưa dừng lại ở đó. Rồi những trò chơi vô bổ như game, hút chích, nghiện ngập,
mại dâm, lô đề, cờ bạc, cá độ dưới mọi hình thức...
Đây là một yếu tố cơ bản đã
khiến nhiều sinh viên không những bỏ đạo, bỏ nhà thờ mà còn đánh mất cả đạo
đức, sự nghiệp, ảnh hưởng đến gia đình về cả kinh tế lẫn tinh thần, và có khi
còn đánh mất cả mạng sống mình trong giây lát. Ngoài ra, sinh viên còn dùng
cách suy nghĩ “lợi lộc” để bào chữa cho việc chạy đua với thế gian của mình.
Những lối rẽ hấp dẫn như thế
đã đưa nhiều sinh viên đi vào bóng đêm của tội lỗi, đi đến ngõ cụt của cuộc sống,
đánh mất Đức Tin, bán rẻ lương tâm và chính bản thân mình. Vì vậy làm sao để
mỗi chúng ta giữ gìn và cũng cố được Đức Tin mà Chúa đã ban?
Những “căn bệnh chủ nghĩa” của thời đại
Không dừng lại ở đó, nhìn vào
lối sống ngày nay, chúng ta thấy rõ những “căn bệnh chủ nghĩa” đang phát triển
và ngày càng lan rộng trong mỗi con người. Lo lắng hơn, “căn bệnh chủ nghĩa”
cũng đang dần ăn sâu vào những người trẻ, để rồi xem thường những giá trị của
con người, lương tâm con người bị bán rẻ, đạo đức được đưa ra cân đo đong đếm
bằng đồng tiền, điểm chác và bằng cấp đánh đổi bằng tiền bạc... Quyền lực, danh
vọng, đồng tiền đã trở nên những ông chủ đích thực quyết định sự “công bằng”
cho luân lý và đạo đức.
Cách riêng những “căn bệnh chủ
nghĩa” khiến sinh viên ngày nay trở nên ích kỷ, thờ ơ, vô cảm với đồng loại,
chai lì tình thương với anh em mình, mờ mắt trước nỗi đau của tha nhân, câm
lặng trước bạo lực, bất công... và điều nguy hiểm hơn là vô cảm trước tội lỗi.
Hơn thế, mọi giá trị trên đời
đang bị xem thường khi chủ nghĩa tương đối đang ăn sâu vào lối nghĩ, cách nhìn
của mỗi người. Không có một thước đo chuẩn mực nào cho cuộc sống, không có một
điểm quy chiếu nào cho suy nghĩ và hành động. Những yếu tố đó cũng đã thâm nhập
vào tâm trí sinh viên Công giáo trong lối sống, gặm nhấm những suy nghĩ tích
cực dẫn đến niềm tin bị phai nhạt, Đức Tin bị lu mờ. Vậy đâu là điểm quy chiếu
để mỗi người trẻ, mỗi sinh viên chúng ta sống xứng đáng với tư cách là con
Thiên Chúa? Và để trở nên những người Công giáo tốt, sống Đức Tin và là chứng
nhân đích thực của Đức Tin Kitô giáo trong xã hội hôm nay?
Thiếu nền tảng giáo lý căn bản
Điểm quy chiếu cần thiết, nền
tảng cho mọi hành động, quy chuẩn cho từng suy nghĩ chính là nền tảng giáo lý
đối với mỗi người Công giáo. Đây là yếu tố căn bản nhất, ảnh hưởng nhất đến đến
đời sống Đức Tin của mỗi Kitô hữu. Việc học giáo lý ngày một sa sút, không
những ở thành thị mà cả nông thôn. Ngày nay, không còn tiếng vang của những giờ
học giáo lý như xưa, những câu thưa, câu đáp dần dần đi vào dĩ vãng; tiếng trẻ
con đọc kinh, học bổn nay cũng hiếm dần. Dường như việc học giáo lý cũng dần
biến chuyển theo “mốt” của thời đại.
Khi mà giáo lý không còn là
“sơ cấp, căn bản” thì những hiểu biết cơ bản về Đức Tin, về Thiên Chúa bị mờ
nhạt như là một hậu quả tất yếu. Thử hỏi khi bước vào một môi trường mới, hòa
nhập vào xã hội với đầy rẫy những ngã rẽ hấp dẫn của thế gian, sinh viên còn
giữ được bản thân mình không? Còn giữ được vững cái nền tảng của Đức Tin Kitô
giáo?
Ngày hôm nay, sinh viên quá
xem thường giáo lý mà Hội Thánh đề ra, mà còn xem đó là một mớ lý thuyết hỗn
độn không đáng quan tâm. Trong khi đó, Giáo hội vẫn luôn khẳng định “ Giáo
Lý của Hội Thánh Công giáo là một công cụ nâng đỡ Đức Tin, đặc biệt trong môi
trường xã hội tục hóa và khoa học kỹ thuật hôm nay” (tài liệu Năm Đức Tin
của Tổng Giáo phận Sài Gòn). Như vậy, trong thời kỳ toàn cầu hóa này, chúng ta
cần một nền tảng giáo lý vững chắc để có thể đứng vững và làm quy chiếu cho mọi
hành động và suy nghĩ trong cuộc sống hằng ngày.
Không những thế, Giáo Hội còn
mời gọi chúng ta là những chứng nhân Tin Mừng giữa đời như lời Đức Thánh Cha
gửi gắm: “Ngày nay Giáo Hội phải dấn thân một cách thuyết phục hơn nữa qua
công cuộc Tân Phúc âm hóa, để tái khám phá niềm vui Đức Tin và tìm lại niềm
hăng say thông truyền Đức Tin. Việc dấn thân truyền giáo của các tín hữu, vốn
không bao giờ được thiếu, sẽ nhận được sức mạnh và tinh thần hăng hái qua việc
hằng ngày nhận ra tình yêu của Thiên Chúa”. (Tự sắc Porta Fidei – Cánh cửa
Đức Tin, số 7).
Thay lời kết
Trên đây là phần nào những
thách đố của thời đại đã và đang ăn sâu vào đời sống con người, cách riêng là
những sinh viên gây hiệu ứng to lớn đến đời sống Đức Tin của mỗi chúng ta. Như
Đức Thánh Cha Benedicto XVI khẳng định: “Quả thật, nhiều hơn so với trước
đây, Đức Tin hiện đang phải đối diện với một loạt vấn đề, do não trạng con
người đã thay đổi...” (Tự sắc Porta Fidei – Cánh cửa Đức Tin, số 12). Đó
là những thách đố lớn đối với Đức Tin của người Kitô hữu, cách riêng là những
bạn trẻ.Năm Đức Tin, Đức Thánh Cha mời gọi mọi người, cách riêng là những sinh
viên hãy nhìn lại hành trình Đức Tin một cách rõ ràng và tổng quát. Qua đó,
chúng ta có sự chuẩn bị, trau dồi và bổ dưỡng cho Đức Tin của mình ngày một
vững chắc, sống động, hài hòa với thời gian và xã hội.
Để đạt được điều đó, thì trước
hết mỗi chúng ta hãy quy chiếu mọi sự về Đức Kitô, hãy “bén rễ và được xây
dựng trên Chúa Kitô, nhờ đó chúng ta được củng cố trong Đức Tin”(Bài giáo lý 2
cho giới trẻ Việt Nam tại
ngày Giới trẻ thế giới 2011 – Gm. Vũ Văn Thiên). Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta
cùng hướng lòng lên Mẹ Maria, học nơi Mẹ một Đức Tin vững mạnh, một niềm tin
tuyệt đối ngang qua hai tiếng “Xin vâng”. Để Mẹ hướng dẫn, củng cố ta trong Đức
Tin và thúc đẩy ta loan truyền tình thương Cứu độ của Chúa.
Xin mượn lời của Đức Thánh Cha
Benedicto XVI trong Tự sắc Porta Fidei (Cánh cửa Đức Tin) để thay cho lời cuối
cùng muốn nói: Mỗi chúng ta hãy “tái khám phá hành trình Đức Tin để luôn
làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say mới của việc gặp gỡ Đức Kitô” đồng thời
“khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng Đức Tin trong sự toàn vẹn và mới
niềm xác tin được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng” và “ước gì
Năm Đức Tin này làm cho tương quan của chúng ta với Chúa Kitô vững chắc thêm
mãi, vì chỉ trong Người chúng ta mới vững lòng nhìn về tương lai và được bảo
đảm về một tình yêu đích thực và lâu bền” (Tự sắc Porta Fidei, số 2, 9 và
15).
Nhân
dịp khai mạc Năm Đức Tin,
J.B Lê
Đình Nam
TIN
– GẶP GỠ
Khi nói về đức tin, một trong những khái
niệm được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhấn mạnh, đó là sự gặp gỡ của cá nhân
của con người với Thiên Chúa. “Ngay
từ khi bắt đầu sứ vụ kế vị Thánh Phêrô, tôi đã nhắc nhở về sự cần thiết phải
tái khám phá hành trình đức tin để ngày càng làm nổi bật niềm vui và lòng hăng
say phấn khởi được đổi mới nhờ được gặp gỡ Chúa Giêsu” (Tự sắc Cửa Đức tin, số 2). Cuộc gặp gỡ
với Chúa sẽ biến đổi cuộc đời của người tín hữu, giúp họ nên thánh.
Từ ban đầu của lịch sử, Thiên Chúa đã muốn
gặp gỡ con người. Qua công trình sáng tạo, Ngài mời gọi con người từ hư vô đến
hiện hữu để gặp gỡ và chia sẻ cho họ vinh quang của Ngài. Việc con người được
tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa cho thấy Chúa muốn đồng hóa với con người. Ngài
tạo nên con người giống như mình, điều đó cũng có nghĩa là Ngài muốn nên giống
họ. Ngài muốn gửi gắm nơi gương mặt con người dấu ấn của Ngài. Sự kiện “giống
Thiên Chúa” nơi con người cho thấy Ngài hiện hữu nơi họ, đồng hành với họ trong
mọi nẻo đường của cuộc sống. Sáng tạo chính là một cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa
Thiên Chúa với con người.
Khởi đi từ cuộc gặp gỡ ban đầu ấy, Thiên
Chúa vẫn tiếp tục đến với con người, kể cả khi họ phạm tội bất trung với Ngài.
Câu chuyện vườn Địa đàng sau khi con người phạm tội đã chứng minh điều đó:
Thiên Chúa đến gặp gỡ Ađam mặc dầu ông và vợ mình đang xấu hổ chạy trốn không
dám ra gặp Chúa.
Như vậy, lịch sử cứu độ cũng là lịch sử của
một chuỗi những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Cũng có khi Ngài gặp
gỡ họ để trách móc, lên án và trừng phạt, nhưng tất cả đều nhằm bày tỏ tình yêu
thương, mong muốn cho họ luôn đi đúng đường lối Ngài chỉ dạy để nhờ đó mà họ
được hạnh phúc.
“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa
đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên
Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Trong lịch sử, cuộc gặp gỡ vĩ
đại nhất giữa Thiên Chúa và con người là Mầu nhiệm Nhập thể. Con Thiên Chúa đã
mang lấy thân phận con người. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa và con người được gặp
gỡ nhau, mật thiết đến nỗi trở nên một, giống như sự liên kết mật thiết của một
cuộc hôn nhân. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa cúi mình xuống để gặp gỡ con người.
Cũng nơi Đức Giêsu, con người được nhấc bổng khỏi thân phận tội lỗi bất xứng,
để được thần linh hóa. Các tác giả Tin Mừng nói với chúng ta Chúa Giêsu gặp gỡ
hết mọi người: từ những chính trị gia cho đến người dân nghèo, từ những luật sĩ
thông thái đến những quả phụ cô thế cô thân; từ những người thánh thiện đến
những người tội lỗi. Tất cả những ai đến với Chúa Giêsu hoặc lắng nghe giáo
huấn của Người đều cảm nhận tình hiền phụ nơi Chúa Cha.
Như Đức Giêsu đã chủ động đến gặp gỡ con
người để nói với họ về Chúa Cha, hôm nay, Người cũng đang đến gặp gỡ chúng ta
để chỉ cho chúng ta suối nguồn hằng sống, là quà tặng chính Người đem đến cho
nhân loại. Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta được mang danh của Chúa Kitô, được
sở hữu Người để rồi qua Người, chúng ta được gặp gỡ Chúa Cha. Thiên Chúa do Đức
Giêsu mặc khải không còn là một vị chúa nghiêm khắc trừng phạt, nhưng là Cha
yêu thương. “Đức tin được
quyết định hoàn toàn trong mối tương quan mà chúng ta thiết lập với con người
của Chúa Giêsu, Đấng là người đầu tiên đến gặp gỡ chúng ta” (Sứ điệp Thượng HĐGM Thế giới lần thứ
XIII, số 3). Đức tin vừa là ân ban của Thiên Chúa, vừa là kết quả do nỗ lực cố
gắng của con người. Sự cộng tác và thiện chí của con người sẽ làm đức tin lớn
lên, sinh hoa kết trái và chiếu tỏa trong cuộc đời.
“Khởi đầu cho cuộc sống Kitô hữu không phải
là một quyết định đạo đức hay một tư tưởng vĩ đại, nhưng là sự gặp gỡ với một
biến cố, với một Con Người, Đấng đem lại cho đời sống chúng ta một chân trời
mới và một định hướng dứt khoát” (Thông điệp Thiên
Chúa là Tình Yêu, số 1). Cuộc gặp gỡ với Con Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta
tìm thấy hướng đi của cuộc đời mình. Điều đó cho thấy trọn vẹn cuộc sống của
chúng ta là sự nối dài của cuộc gặp gỡ ấy, để rồi càng ngày, chúng ta càng tiến
vào thâm sâu hơn của mối tình Thiên Chúa - con người.
Như vậy, tin không chỉ là hành động của lý
trí, mà còn là của con tim. Nhờ lý trí, chúng ta tin có Chúa hiện diện. Nhờ
trái tim, chúng ta yêu mến và gặp gỡ tâm sự với Ngài, nhờ đó mà chúng ta được
thần linh hóa. “Con tim chỉ
rằng hành vi đầu tiên ta đạt đến đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa và tác
động của ơn thánh hành động và biến đổi con người ngay từ nội tâm” (Tự sắc Cửa Đức tin, số 10).
Thiên Chúa hiện diện khắp mọi nơi. Ta có
thể gặp Ngài cách dễ dàng. Tuy vậy, có những phương pháp giúp ta dễ gặp Chúa
hơn, đó là cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa và thực thi bác ái. Qua những thực
hành đạo đức này, chúng ta sẽ có một đức tin trọn vẹn trong lời tuyên xưng cũng
như trong thực hành cụ thể.
Mỗi ngày, chúng ta có biết bao cuộc gặp gỡ:
giữa bạn bè đồng nghiệp, giữa những thành viên trong cùng một gia đình, người
thân quen trong lối xóm và ngay cả giữa những người không hề quen biết. Những
cuộc gặp gỡ ấy sẽ là một cơ hội để kết nối tình bạn, nếu được xây dựng trên nền
tảng của cuộc gặp gỡ với Chúa. Bởi lẽ, nhờ gặp gỡ Chúa mà cuộc đời chúng ta
được thấm đượm tinh thần của Người.
Trong cuộc sống, mỗi lần gặp gỡ tha nhân,
chúng ta có những khám phá mới, biết người hơn và cũng biết mình hơn. Cũng vậy,
mỗi lần gặp gỡ Chúa, con tim ta cảm nghiệm sự ngọt ngào của tình yêu thiêng
liêng vĩnh cửu. Thánh Augustinô đã thốt lên:
“Lạy Chúa, Chúa là vẻ đẹp của ngàn xưa,
Một vẻ đẹp mỗi ngày mỗi mới”.
Chúa là Đấng thường hằng bất biến. Vẻ đẹp
của Ngài từ ngàn đời vẫn thế, vì Ngài không bị giới hạn bởi thời gian và không
gian. Tuy vậy, mỗi khi gặp gỡ Ngài, chúng ta lại có những khám phá mới mẻ, mỗi
lúc khởi đầu ngày mới lại là một cuộc lên đường theo Chúa với nghị lực và niềm
vui mới. Đó là lý do tại sao thánh lễ ngày nào cũng giống nhau mà chúng ta tham
dự không hề chán. Điều đó lý giải việc đọc đi đọc lại kinh Kính Mừng khi đọc
Kinh Mân Côi mà vẫn thấy say sưa một cách lạ kỳ. Cùng một bản văn Thánh Kinh,
cùng một nghi thức phụng vụ, nhưng mỗi người lại có những cảm nhận riêng, nhờ
ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần và nhờ sự đáp lại của mỗi chúng ta trong cuộc
gặp gỡ thân tình với Chúa.
Năm Đức Tin đã khai mạc. Cửa Đức Tin đã mở
ra để “dẫn chúng ta vào đời
sống hiệp thông với Thiên Chúa và vào Giáo Hội” (Tự sắc Cửa Đức tin, số 1). Ước mong
mỗi tín hữu sẽ được “gặp gỡ
Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh”,
nhờ đó, họ trở nên môn đệ trung tín của Người giữa trần gian.
+ Gm. Giuse Vũ
Văn Thiên
......................................................................................................................
Năm Đức Tin: Thế nào là người thực sự có Đức tin?
Năm Đức tin đã được mở ra trong Giáo Hội từ ngày 11 tháng 10
năm 2012 cho đến ngày 24 tháng 11 năm 2013.Mục đích là để mọi người trong Giáo
Hội nhìn lại đời sống đức tin của mình để trước hết cảm tạ Thiên Chúa đã ban
quà tăng đức tin vô giá cho chúng ta và từ đó thêm quyết tâm sống đức tin cách
cụ thể và có chiều sâu hơn nữa để thích nghi với những thách đố của thời đại
tục hóa, trống vắng mọi niềm tin này, và cũng để phúc âm hóa người khác, tức là
mời gọi thêm nhiều người nữa nhận biết và tin yêu Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc
nhân loại.
Đó là tất cả ý
nghĩa và mục đích của công cuộc “Tân phúc âm hóa để loan truyền đức tin
Kitô-Giáo=New Evangelization for the transmission of Christian faith) mà
Giáo Hội thi hành trong Năm Đức Tin này
Thực vậy,
chúng ta đang sống trong hoàn cảnh tục hóa của thời đại tôn thờ vật chất (
Materialism) chuộng khoái lạc ( hedonism) vô thần ( atheism) và phi luân vô đạo
( amoralism).
Do đó, hơn bao
giờ hết, là người tin có Thiên Chúa là Đấng tạo dựng con người và muôn vật hữu
hình và vô hình, tin Chúa Kitô là Đấng cứu chuộc nhân loại, tin Chúa Thánh Thần
là Đấng ban sự sống và là Thần Chân Lý, hiệp nhất cùng một
bản thể với Chúa Cha, và Chúa Con trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi một Thiên Chúa
duy nhất. Tin Mẹ Maria là Mẹ thật của Chúa Kitô và cũng là Mẹ Thiên Chúa (
Theotokos) trọn đời đồng trinh và được về trời cả hồn xác. Tin Hội Thánh Công
Giáo là Thân Thể mầu nhiệm của Chúa Kitô trong sứ mệnh bảo vệ kho tàng đức tin
và rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô cho đến ngày mãn thời gian và tin
xác loài người ngày sau sẽ sống lại.
Đó là nội dung
căn bản của Đức Tin Công Giáo mà chúng ta hãnh diện tuyên xưng, sau khi
được lãnh nhận qua Phép Rửa để trở thành tạo vật mới và được
phép gọi Chúa là Cha. ( Abba).
Như thế “đức
tin là bảo đảm cho ta những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta
không thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám.” ( Dt 11 : 1-2)
Trước hết, Đức
tin là điều kiện tiên quyết cho ta được cứu độ nhờ công nghiệp cứu chuộc của
Chúa Kitô, Đấng đã đến trần gian làm Con Người để “ phục vụ và hiếm nạng sống mình làm
giá chuộc cho muôn người.” ( Mt 20; 28).
Do đó, phải có
đức tin để tin Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc để nhờ Người mà ta được cứu rỗi nếu
ta thực sự cộng tác với ơn cứu rỗi đó bằng quyết tâm sống theo đường lối của
Chúa trong suốt cuộc đời trên trần thế này.
Nhưng phải sống đức tin cách nào cho
xứng đáng là người thực sự có đức tin ?
Có đức tin là
điều tối cần thiết nhưng quan trọng hơn là phải sống đức tin ấy bằng hành
động cụ thể từ trong tâm hồn ra đến mọi hành động bên ngoài giữa bao người
không có đức tin để minh chứng mình khác với họ ở điểm then chốt là có
động lực nội tâm hướng dẫn mọi mọi tư tưởng, tình cảm và hành động của
mình về Thiên Chúa là đich điểm của mọi sự thiện hảo , sự
lành và trong sạch giữa thế gian ô uế vì tội lỗi, vì gian ác và đầy
bất công, vô nhân đạo. Động lực đó là niềm tin có Chúa là Đấng trọn tốt trọn
lành, uy quyền vô song, rất công bình và giầu tình thương.
Như vậy,
người có đức tin phải sống đức tin ấy sao cho phản ảnh trung thực
những đặc tính của Đấng mình tin yêu tôn thờ để nhờ sống niềm tin như
vậy, ta sẽ giới thiệu Chúa cho người khác chưa biết Chúa để họ được thấy Chúa
hiện diện trong ta và đem lòng tin yêu Người như Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ
xưa:
“Chính
anh em là ánh sáng cho trần gian….Cũng vậy , ánh sáng của anh em
phải chiếu giãi trước mặt người thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp
anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em Đấng ngự trên trời.” (
Mt 5, 14-16)
Nói rõ hơn,
trong khi những người không có niềm tin Chúa, nên làm những việc sai trái
như thề gian, nói dối, bất công bóc lột người khác, trộm cắp, nhất
là giết người, gian dâm, cờ bạc, thay vợ đổi chồng, tiếp tay với kẻ
cầm quyền vô đạo để đàn áp, triệt hạ những ai chống đối đòi quyền sống và
công bình xã hội.. thì người có đức tin phải nêu cao những giá trị của niềm tin
là ngay thẳng, lương thiện, công bình, bác ái, yêu thương, tha thứ và trong
sạch để nên nhân chứng đích thực cho Chúa trước mặt những người không có niềm
tin và đang làm những sự xấu, sự dữ nói trên, để mong thức tỉnh họ
từ bỏ con đường dẫn đến hư mất đời đời.
Như thế, sống
đức tin cách hoàn hảo và cụ thể không những góp phần phúc âm hóa người khác
mà còn nói lên chính mình là người thực sự tin có Thiên Chúa
là Cha toàn năng, Đấng tạo dựng muôn loài, mọi vật và đặc biệt tạo
dựng con người “ giống hình ảnh
Thiên Chúa” (St 1, 27) Đấng “ muốn
cho mọi người được cứu độ và nhận
biết chân lý.” (1 Tm 2, 4), vì “Thiên Chúa là tình yêu..” ( 2 Ga 4, 8).
Nói khác đị,
đức tin phải được chứng minh bằng hành động cụ thể để cho thấy sự trung
thực giữa lý thuyết và thực hành, giữa lời nói suông là có đức tin
khác biệt với hành động được đức tin thúc đẩy , soi dẫn và qui chiếu về
Thiên Chúa là nguồn mạch chân lý, và thiện hảo như Thánh Gia-cô-bê Tông Đồ đã
dạy như sau:
“Hỡi người đầu
óc rỗng tuếch: bạn có muốn biết rằng đức tin không có hành động là vô
dụng không? ông Ap-bra-ham tổ phụ chúng ta đã chẳng được nên công chính
nhờ hành động , khi ông hiến dâng con mình là I-Xa-ac trên bàn thờ đó sao? Bạn
thấy đó, đức tin hợp tác với hành động của ông, và nhờ hành động mà đức tin nên
hoàn hảo.” ( Gc 2, 20-22)
Nghĩa
là, vì có đức tin mạnh mẽ và lòng mến Chúa thâm sâu, nên ông
Abraham đã dám hy sinh con một của ông là Issac theo lời đòi hỏi của Thiên Chúa
nhằm thử thách đức tin và lòng mến của ông. Nếu Chúa không sai Sứ thần đỡ lấy
tay ông đang cầm dao vung lên, thì chắc chắn con ông đã bị giết. Thiên Chúa đã
can thiệp để cứu mạng sống của Issac, vì đã nhìn thấy rõ đức tin phi
thường của ông Apbraham, nên Chúa đã phán bảo ông như sau qua Sứ thần của
Người:
“Sứ Thần của
ĐỨC CHÚA từ trời gọi ông Abraham một lần nữa và nói:” Đây là sấm ngôn của Đức
Chúa, Ta lấy danh Ta mà thề : bởi
vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta
sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều
như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển…chỉnh bởi vì ngươi đã
vâng lời Ta.” ( St 22: 15-
18)
Sự kiện trên
cho thấy là ông Abraham đã thể hiện cách cụ thể lòng tin yêu Thiên Chúa qua
việc ông dám hy sinh con một của mình để tế lễ Chúa như Người đã truyền cho
ông. Hành động cụ thể của ông đã đủ minh chứng đức tin mạnh mẽ và hoàn hảo của
ông khiến ông trở nên người cha của những ai tin và yêu mến Thiên
Chúa cách cụ thể và đầy thuyết phục như Thánh Gia-cô-bê nói
trên đây.
Cũng phải
kể thêm gương đức tin sáng chói nữa là của các Thánh Tử Đạo- đặc biệt là
các anh hùng Tử Đạo Viêt-Nam, cha ông chúng ta đã can đảm và
anh dũng chịu mọi cực hình để tuyên xưng niềm tin sắt son của mình trước
bạo quyền bách hại.Chính nhờ máu các ngài đổ ra mà hạt giống đức tin đã nẩy
sinh ra nhiều tin hữu cho Giáo Hội Việt-Nam.
Ngay nay,
chúng ta không có cơ hội đổ máu mình ra để tuyên xưng đức tin như các anh
hùng Tử Đạo xưa kia.Nhưng chúng ta vẫn có nhiều cơ hội khác để minh chứng đức
tin của mình trước bao người không có đức tin và đang làm những sự dữ như
giết người, giết thai nhi, bóp nghẹt lương tâm để lường gạt người
khác, hoặc làm những việc có chủ đích mời gọi người khác phạm tội như mở sòng
bạc , nhà mãi dâm, buôn bán ma túy, hoặc phụ nữ cho kỹ nghệ dâm ô
dưới chiêu bài “hôn nhân nước ngoài” khiến biết bao phụ nữ, vì nghèo đói,
phải cam chịu đem bán mình làm thú vui cho kẻ vô luân vô đạo ở trong và
ngoài nước.
Trước thực
trạng ghê tởm này, người tín hữn Chúa Kitô- đều được mong đợi sống niềm
tin của mình cách cụ thể là không những phải xa tránh những
lối sống vô luân vô đạo nói trên mà còn phải can đảm lên án những
tụt hậu thê thảm về luân lý, đạo dức của xã hội mình đang sống, theo
gương Chúa Kitô, Người đã lên án tội lỗi của thế hệ đương thời như sau :
“Thế hệ gian
ác và ngoại tình này đòi dấu lạ.Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào,
ngoài dấu lạ ông Giôna..” ( Mt 16: 4)
Dấu lạ ông
Giôna là dấu dân thành Ni-ni-vê, nghe lời cảnh cáo của ngôn sứ Giôna để
ăn chay, xám hối, xin Chúa tha thứ không đánh phạt và Chúa đã nhậm lời xin tha
không trừng phạt họ như Người đã ngăm đe. ( Gn 3: 1-10)
Như vậy ,
gương đức tin của ông Abraham và của các Thánh Tử Đạo phải là những khuôn vàng
thước ngọc cho chúng ta ngày nay noi theo để minh chứng cụ thể
trước thế gian chúng ta thật sự tin yêu Chúa, Đấng chúng ta không được
xem thấy, nhưng vững lòng tin có Người là Cha toàn năng. Người yêu thương mọi
con cái loài người đến mức đã hy sinh chính Con Một của mình là Chúa
Kitô, Đấng cũng vui lòng hiến mạng sống mình cho chúng ta được tha thứ tội lỗi
và có hy vọng được cứu độ để sống hạnh phúc muôn đời với Chúa tình thương trên
Nước trời mai sau.
Phải nói là có
hy vọng thôi chứ không phải là bảo đảm chắc chắn ngay từ bây giờ vì tất
cả còn tùy thuộc một phần nơi thiện chí của mỗi người chúng ta trong cuộc
sống đức tin trên trần thế này.
Thức vậy,
chúng ta phải sống đức tin có Chúa ở mọi chiều kích như đức tin đòi hỏi.
Đó là -trước hết- phải thực tâm yêu mến Chúa trên hết mọi sự,và cương quyết
từ bỏ ma quỷ là kẻ gây ra mọi tội lỗi để mong đẩy xa con người ra
khỏi tình thương của Chúa. Đó là hành động cụ thể để chứng minh hùng hồn
đức tin hoàn hảo vì “ đức
tin không có hành động thì quả là đức tin chết.” như Thánh Gia-cô-bê Tông Đổ đã
dạy.(cf. Gc 2, 17)
Kinh nghiệm
phổ biến trong cuộc sống ở khắp mọi nơi cũng cho ta thấy là người nào chỉ nói ,
nói nhiều , nói hay, mà không thực hành điều mình nói thì chắc chắn sẽ
không thuyết phục được ai tin những gì mình nói. Thí dụ hô hào, kêu
gọi người khác làm việc bác ái, giúp đỡ thiết thực cho người đang nghèo đói,
nhưng bản thân mình lại không hề bỏ ra một đồng nào để giúp các nạn nhân
trong khi mình có dư khả năng làm việc đó , thí làm sao lời hêu gọi của mình
được ai hưởng ứng nữa ?
Lại nữa,
khuyên người khác sống hòa thuận vợ chồng mà mình lại ly dị vợ hay chồng để lấy
người khác trẻ, đẹp hơn thì lời khuyên của mình còn thuyết phục được ai nữa ?
Cũng vậy, mang
danh người tín hữu Chúa Kitô mà tham gia vào những việc làm ăn bất lương, bất
công, bóc lột người khác, dửng dưng trước sự khò nghèo của người khác, có dư
thì giờ đi hu hí, nhẩy nhót mất nết, vui chơi thâu đêm suốt sáng, nhưng lại
không có giờ đi dự lễ ngày Chúa Nhật cách trọn vẹn, cũng như không hề cầu
nguyện và năng xưng tội , rước Mình Thánh Chúa, thì đức tin kia còn sống
hay đã chết ?
Lại nữa, miệng
nói tôi tin Chúa Kitô, mà chân lại bước vào những con đường dẫn đến các
sòng bạc lớn nhỏ, đến những nơi mua bán dâm ô, hoặc những nơi giải tri
tội lỗi để thỏa mãn thú vui xác thịt, và nhất là thú ấu-dâm (
child prostitution) rất khốn nạn thì mang danh Công giáo và
tuyên xưng đức tin ngoài môi miệng có ích lợi gì cho ai ?
Khi lời
nói không đi đôi với việc làm thì sẽ trở thành người đạo đức giả, giống bọn
biệt phái và luật sĩ mà Chúa Giêsu đã nặng lời chỉ trích xưa kia.
Những ai sống
kiểu này cần nghe lại lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa như sau:
“Không phải
bất cứ ai thưa với Thầy, Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu, Nhưng chỉ ai ai thi hành ý muốn của
Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” ( Mt 7, 21)
Thi hành ý
muốn của Cha trên Trời có nghĩa là phải sống đức tin thực sự từ trong tâm hồn
ra đến hành động bên ngoài sao cho phản ảnh trung thực những giá trị của Tin
Mừng Cứu Độ mà Chúa Kitô đã rao giảng và không hổ thẹn phải xưng danh
Chúa và sống những đòi hỏi của
Phúc Âm sự sống trước mặt người đời, trước mặt những
kẻ đang sống theo “văn hóa của sự
chết” để làm những điều gian ác vô luân vô đạo ở khắp nơi.
Người tín hữu
nào không có can đảm sống đức tin như vậy thì hãy nghe lời Chúa cảnh giác sau
đây :
“Giữa thế hệ
ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì Ta và những lời Ta dạy, thì Con Người
cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh Thiên thần, trong vinh quang của Cha
Người. “ ( Mc 8, 38).
Tóm lại, Năm
Đức Tin mời gọi mọi tín hữu không những dâng lời cảm tạ Chúa về quà tặng đức
tin quý giá đã nhận được, mà cần thiết phải nhìn lại cách sống đức tin của mình
trong bao năm qua, để từ đó – với ơn Chúa Thánh Linh soi sáng - biết
chuyển hướng đời sống đức tin của mình cho thêm cụ thể và sống động
để sống xứng đáng là nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt người khác trong hoàn
tục hóa, phản Kitô-giáo của thế giới ngày nay.
Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
...............................................................................................................
Con người chỉ có
thể được cứu nhờ lòng Tin
Trong những ngày vừa qua, toàn thể Giáo hội
đã long trọng khai mạc Năm Đức Tin, bắt đầu từ ngày 11/10/2012 đến ngày
24/11/2013. Qua Tự sắc “Cánh Cửa Đức Tin”, Đức Thánh Cha đã thúc giục mọi tín
hữu hãy tái khám phá hành trình đức tin của mình, để sống đức tin một cách
trưởng thành, trong sự tự do và phong phú mà Thiên Chúa đã trao ban.
Cùng “nhịp đập con tim” của Giáo hội,
Chương trình Chuyên đề Giáo dục thuộc Ban Mục vụ Gia đình TGP. Sài Gòn, đã tổ
chức khóa học “Sống Đức Tin” gồm 6 đề tài vào các chiều thứ Bảy, kể từ ngày
20/10/2012, nhằm giúp các tín hữu trong Tổng Giáo phận có thể cùng nhau học
hỏi, chia sẻ kinh nghiệm sống Đức Tin. Buổi nói chuyện đầu tiên trong khóa này
mang tên “Sống Đức Tin Giữa Đời Thường”, do Cha Giuse Nguyễn Trọng Viễn, OP
chia sẻ, đã thu hút đông đảo các nam nữ tu sĩ và giáo dân, ngồi chật kín Hội
trường Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận thuộc Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo phận.
Biểu dương đức tin
Sau bài múa khởi động và cầu nguyện
đầu giờ như thường lệ, trong vai trò dẫn chương trình phụ giảng cho Cha giáo
Giuse Nguyễn Trọng Viễn, Thầy Giuse Hà Đình Tuấn đã giới thiệu phần dẫn nhập đề
tài. Theo thầy, sống đức tin giữa đời thường là biểu hiện của niềm tin trong
từng khoảnh khắc của cuộc sống, là tuyên xưng, phó thác vào Đấng Cao Cả là
Thiên Chúa. Tại Thế vận hội Luân Đôn năm 2012 vừa qua, mọi người rất vui mừng
và xúc động khi chứng kiến giây phút nữ vận động viên cự ly dài, người Ethiopia
Meseret Defar chạm đích đến để đoạt huy chương vàng của cuộc thi, chị đã hôn
lên hình Đức Mẹ và òa khóc trong nỗi vui mừng ngất ngây. Chị Defar đã công khai
thể hiện niềm tin của mình một cách đơn sơ và mộc mạc để tạ ơn Thiên Chúa đã
cho chị chiến thắng. Còn mỗi người chúng ta, đâu là một hành động đức tin trong
đời thường? Những khoảnh khắc thinh lặng, buông lỏng để phó thác vào lòng
thương xót của Thiên Chúa, chúng ta có cầu nguyện không? có sống niềm tin
không?
Các lãnh vực của lòng tin
Để khơi gợi đề tài sống đức tin trong đời
thường, thầy đã dẫn dắt khán thính giả đi tìm ý nghĩa của các lãnh vực của lòng
Tin, vốn được đặt trong những xô bồ, bấp bênh, tất bật của cuộc sống hằng ngày.
Nó được thể hiện rất rõ nét qua việc giữ chữ Tín trong gia đình và ngoài xã
hội.
Chữ tín
Trích dẫn từ một bài báo mang tên “Chữ tín
người cầm bút”, thầy đã kể những câu chuyện của những nhà báo đã đánh mất chữ tín
của mình trong quá trình tác nghiệp, khiến cho người ta mất đi lòng tin nơi
giới nhà báo.
Một nhà báo nọ đã đến gặp một lão nghệ nhân
còn lưu giữ rất nhiều tư liệu quý về “Chuyện cười dân gian”, nài nỉ xin cụ cho
mượn tài liệu và hứa sẽ gửi trả. Nhưng mượn được rồi thì “lặn” mất tăm, làm cụ
đợi hết ngày này qua tháng nọ. Còn cô phóng viên kia đến gặp một vị lão thành
cách mạng xin phỏng vấn để viết bài. Cô hứa sẽ gởi bản thảo để cụ sửa cho chính
xác về cuộc đời hoạt động của cụ. Nhưng sau đó thì cô tự tiện viết thêm thắt
không đúng sự thật, có những chi tiết cụ kể với tính cách riêng tư, nhưng cô
cũng đưa lên mặt báo, làm cho một số bạn bè của cụ đọc bài báo lại hiểu lầm,
rằng cụ thêm thắt, kể công vì thích được danh tiếng. Kế đến là câu chuyện phóng
viên hẹn phỏng vấn ông giám đốc, nhưng trễ hẹn cả tiếng đồng hồ, để ông phải
chờ đợi; hoặc có phóng viên phỏng vấn một bà lão, hứa sẽ tặng báo biếu khi bài
được đăng, nhưng xong việc rồi thì “cao chạy xa bay”.
Để kết thúc phần gợi mở, thầy cho hay:
Lương tâm nghề nghiệp và thái độ tôn trọng của bản thân đối với các mối tương
quan gia đình, nghề nghiệp và xã hội là rất quan trọng. Chữ tín có một giá trị
rất lớn, nó là tài sản khổng lồ mà ít người để ý đến. Và để có tài sản này, đôi
khi chúng ta phải xây dựng nó từng phút một. Thế nhưng, để phá hủy tài sản vô
giá ấy, chỉ cần một lần thất hứa, thì uy tín của chúng ta đã bị sụp đổ tan
tành.
Lời hứa
Với phong cách vui vẻ, cởi mở và cuốn hút
người nghe, Cha Giuse đã mở đầu bằng cách đặt ra một tình huống thú vị về lời
hứa: Một anh nọ hứa sẽ cho bạn mượn tiền vào đầu tháng sau, nhưng rủi thay,
ngay cuối tháng đó, trộm đã vào nhà lấy sạch tiền, anh phải giải quyết thế nào
khi người bạn đến hỏi vay tiền? Phải chăng anh nói thật rằng mình bị mất trộm
nên xin bỏ qua để khỏi phải thực hiện lời hứa? Thực tế, có những lúc người ta
phải vượt qua được tình huống hiện tại, để giữ trọn lời hứa. Vì thế, tuy hết
tiền nhưng anh phải tìm mọi cách để thực hiện lời hứa. Đó là phẩm chất đặc biệt
của một con người có nhân cách.
Trong thực tế của cuộc sống, chúng ta vẫn
phải có lời hứa, giao ước, giao kèo và hợp đồng. Đó là điều không thể tránh
khỏi. Nhưng, một khi đã hứa, đã giao kèo thì không thể phớt lờ cho qua, mà phải
thực hiện cho bằng được. Như vậy, mới thực sự là người có giáo dục và nhân bản.
Đi vào đời sống gia đình, có người thấm
thía rằng: Đời sống gia đình thật nặng nề, khó khăn, thậm chí cay đắng! Nhưng
một khi đã đưa nhau tới nhà thờ, đã thề hứa trước mặt Chúa và Hội Thánh, thì dù
có ra sao chúng ta cũng không được phá vỡ cuộc hôn nhân. Cần phải nhận thức
rằng: Hôn nhân Công giáo là một giao ước và được bảo đảm bằng lời hứa của chính
mình. Sâu xa hơn, nhờ ân sủng Chúa ban qua bí tích Hôn Phối, đôi bạn sẽ chu
toàn trách nhiệm vợ chồng và giữ lòng chung thủy với nhau cho đến trọn đời.
Chúa đã hứa rất nhiều với con người: Trong
vườn Địa đàng, Chúa hứa cho dòng dõi người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn. Chúa hứa
với tổ phụ Abraham sẽ cho dòng dõi ông đông dúc như “sao trên trời, như cát
dưới biển”. Chúa hứa sẽ đưa dân Do Thái về miền đất hứa “chảy sữa và mật ong”…
và Ngài đã thực hiện trọn vẹn. Qua những việc thực thi lời hứa ấy, Chúa muốn
mời gọi chúng ta hãy tin tưởng nhau, hãy thi hành lời hứa, và nắm bắt được
những dấu hiệu của niềm tin.
Tâm, tài và luật pháp
Ngày xưa, cụ Nguyễn Du nói rằng: “Chữ tâm
kia mới bằng ba chữ tài”, nghĩa là cái tâm quan trọng hơn cái tài. Hơn nữa,
phải có cái tâm mới có thể hướng dẫn, điều khiển được cái tài, và tùy theo mức
độ của tài mà có cái tâm thích hợp. Ngược lại, người có tâm lớn nhưng tài mọn
thì sẽ trở thành kẻ phá hoại. La Tử Phúc có nói: “Có học vấn mà không có đạo
đức là người ác. Có đạo đức mà không có học vấn là người quê”. Tuy nhiên, có vẻ
như phương án về tâm và tài đã không thể thực hiện được trong thời đại ngày nay
do mọi sự đang tiến bộ quá nhanh: cái gì cũng phải học hỏi, cái gì cũng phải
thăng tiến, cái gì cũng phải có thêm kiến thức. Dường như, sự phát triển đã
buộc người ta không thể chờ những người có đủ cái tâm để dạy những kiến thức
đáp ứng cho nhu cầu của thời đại, vì vậy người ta chọn cách loại bỏ cái tâm đi,
chỉ lấy cái tài. Ai có nhu cầu học hỏi bất cứ ngành nghề gì, cứ đóng tiền thì
học, họ không cần biết cái tâm thế nào, có hợp với ngành nghề cần học hay
không; còn ai có khả năng dạy kiến thức thì cứ dạy, chẳng cần dạy về lương tâm
nghề nghiệp ra sao.
Với xu thế phát triển, người ta lấy pháp
luật thay cho cái tâm, thay cho chữ tín; người ta tin pháp luật sẽ giải quyết
mọi tình huống trong xã hội. Nhưng trong thực tế, luật pháp không thể kiểm soát
hết được; vả lại, bao nhiêu chuyện trong đời sống xã hội không phải lúc nào
cũng dùng đến pháp luật. Thế là lãnh vực của cái tâm, trong đó có chữ tín, ngày
càng bị giảm sút. Thế nên, người ta không còn biết tin ai; thức ăn, đồ dùng
thật giả, độc hại, nguy hiểm cho sức khỏe con người thế nào không biết đâu mà
lường!
Tình thế của xã hội ngày nay khiến người ta
không còn coi trọng chữ tín, vì họ tin rằng: Luật pháp có thể giải quyết được
tất cả. Tuy nhiên, luật pháp “cần” nhưng “không đủ”. Vì thế, niềm tin không
phải là vô ích, con người cần phục hồi niềm tin, cần tìm lại chữ tín trong cuộc
sống đời thường.
Phẩm chất của lòng Tin
Trước khi trình bày về phẩm chất của lòng
Tin, Cha Giuse đã giới thiệu cho cộng đoàn xem đoạn video nói về 10 phẩm chất
oai hùng của các chứng nhân đức tin thời kỳ Tông tòa của Giáo hội Việt Nam từ
năm 1659 đến 1960. Đó là: không cuồng tín, không để liên lụy, không man trá,
cuộc đời như một Thánh lễ, tôn trọng pháp quyền, gắn kết cộng đoàn, tuyên xưng
đức tin, trung tín đến cùng, lòng bao dung tha thứ, xác tín với niềm tin Phục
sinh.
Con người bắt đầu đi vào một phẩm chất khác
trong tương quan với nhau. Bởi vì, khi người ta không có lòng đón nhận nhau thì
đành phải tìm cách ép buộc nhau. Người ta thường thích thống trị theo kiểu bạo
chúa. Nhưng không bao giờ chinh phục được nhân tâm do chỉ có bạo lực và thống
trị, cho nên càng độc tài bao nhiêu càng cô đơn bấy nhiêu, vì không ai thực sự
quý trọng mình. Thế nhưng, sống lòng tin là để cho tha nhân tự do thực hiện
điều mà bản thân mình khao khát, mong ước.
Tin để sống thú vị như một cuộc chơi. Vì
khi tha nhân tự nguyện đáp lời mời gọi của mình thì niềm vui sẽ vỡ òa. Con
người cần có niềm vui, và niềm vui lớn nhất, sâu xa nhất chính là đi vào cuộc
phiêu lưu với mối tương quan cao đẹp. Đó là mối tương quan tự khám phá nhau, tự
nguyện làm điều mà người kia thích, đồng thời chờ đợi người kia làm những điều
có thể thỏa mãn lòng mình. Sâu xa nhất, là người ta khao khát tình nghĩa, đó
chính là phẩm chất của lòng tin. Trong cuộc phiêu lưu này, người ta giữ khoảng
cách với nhau để không xâm phạm vào nhau, không phải mạnh ai nấy đi, không phải
do luật chi phối mà do lòng tin gìn giữ để có thể đi vào cuộc chơi song song
bay lượn.
Tin là phẩm chất cao quý nhất trong mối
tương quan giữa con người với nhau, không luật pháp hay lối giải quyết nào có
thể thay thế, chỉ có chiều ý nhau trong niềm tin vào nhau, đó là cách tương
quan với nhau trọn vẹn phẩm giá con người hơn hết.
Con người chỉ có thể được cứu nhờ lòng Tin
Để cứu độ con người, Chúa mời gọi con người
tin vào Chúa. Tin vào Chúa là để được cứu rỗi. Nhưng cần phải biết mình được
cứu khỏi cái gì. Chỉ khi nào hiểu ra mình được cứu khỏi cái gì thì mới có thể
hiểu được cần có đức tin vào Chúa như thế nào. Vì thế, cần trở về điểm căn bản
quan trọng trong đời sống đức tin, như lời Thánh Phaolô: “Nguyện xin Thiên Chúa
gìn giữ anh em để thần trí, linh hồn và thân xác anh em được vẹn toàn, không gì
đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến” (1 Tx 5,23).
Theo quan niệm của người Do Thái, con người
toàn diện có 3 khía cạnh: thần trí, linh hồn và thân xác. Thần trí của con
người nghĩa là con người toàn diện trong khía cạnh tương giao với Chúa. Khi nói
thân xác con người yếu đuối nghĩa là con người toàn diện trong khía cạnh yếu
đuối và bị bế tắc của mình. Khi nói linh hồn của con người thì đó cũng là con
người toàn diện trong khía cạnh là sự sống nội tại, có suy nghĩ, có khao khát,
có yêu mến, có ý chí, có những quyết định trong cuộc đời. Linh hồn đó hoặc là
“hứng theo thần trí”, hoặc là “hứng theo xác thịt”.
Nếu con người toàn diện trong khía cạnh
thần trí tương giao với Chúa thì khi ăn cơm, chúng ta thánh hóa giờ ăn; khi đi
ngủ, chúng ta làm dấu thánh giá thánh hóa giờ ngủ; hoặc có đi chơi, làm việc đi
nữa, chúng ta vẫn sống với Chúa trong thân xác của mình.
Nếu con người toàn diện trong khía cạnh
thân xác yếu đuối hay cuộc sống nội tại đã “hứng theo xác thịt” thì ngay cả khi
đọc kinh thờ phượng Chúa hay tham dự Thánh lễ là tương giao với Chúa, nhưng
người ta vẫn có thể có thái độ theo tính xác thịt, nghĩa là chỉ làm lấy lệ, cho
xong bổn phận chứ không thực sự sống trong mối tương quan thực sự với Thiên
Chúa. Nếu linh hồn không “hứng theo thần trí”, nghĩa là không tin vào Chúa,
không mở cửa thần trí ra thì mọi suy tính, làm việc, ao ước, quyết đoán chuyện
này, chuyện kia toàn là theo tính xác thịt. Nếu con người giao tiếp với vũ trụ
(ăn, uống ngủ, nghỉ) và giao tiếp với nhau mà không “hứng theo thần trí” thì
người ta bị giam hãm trong tính xác thịt, đó là những suy tính rất đời thường
của con người. Trong suy tính đó, sự ác xuất hiện, dấu hiệu của sự chết xuất
hiện và cuộc sống bị bế tắc. Từ đây, có thể thấy rằng người ta không bao giờ có
thể tự cứu chính mình. Đây là chỗ chúng ta cần phải nhận ra để được cứu rỗi khi
tin vào Chúa.
Điều đầu tiên, để được cứu rỗi, chúng
ta phải chống lại sự ác nhởn nhơ trước mặt. Khi dám mơ ước một thế giới thuần
thiện thì con người cần mở rộng lòng ra: “hứng theo thần trí” để khát vọng yêu
thương, hiệp nhất; nhận ra sự bế tắc của cuộc đời này để tin mình cần được cứu
khỏi sự ác của tính “hứng theo xác thịt” đã chi phối đời mình.
Đức tin
Đức tin có hai nội dung là gắn bó với Chúa
và chấp nhận mọi điều Chúa dạy. Tin vào Chúa là tin mình cần được cứu, tin vào
chính Chúa. Khi đón nhận một con người, chúng ta chấp nhận hết bản tính của
người đó dù có thế nào chăng nữa, ta vẫn đón nhận hết. Đó là đi vào một cuộc
phiêu lưu, đón nhận tất cả những gì có thể xảy ra. Đây mới đúng là tin. Tương
tự như vậy, tin vào Chúa là phải đi vào cuộc phiêu lưu với Chúa. Bởi vì, chỉ có
dám tin từ ngày này sang tháng nọ thì mới phát hiện những điều hay qua lời Chúa
dạy theo thời gian, và mới thấy hiệu quả của Đức Tin xảy ra trong cuộc đời
mình.
Nếu chúng ta tin mà không gắn bó với Chúa,
chỉ chào đón cái này mà loại bỏ cái kia theo ý riêng mình, thì đó là niềm tin
theo kiểu “giáo phái”, chỉ lựa chọn một số trong những điều Chúa dạy, không đi
vào cuộc chơi được, không phải là niềm tin đích thực.
Một mẫu gương cho niềm tin đích thực chính
là Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Khi ngài bị bắt và bị giam giữ
tại chính giáo phận mà trước đây ngài dẫn dắt, ngài cảm thấy mọi công việc bị
bế tắc khi chọn công việc của Chúa giao, nhưng rồi ngài nghiệm ra một điều như
là Chúa nói với ngài: “Con chọn Thầy hay chọn công việc của Thầy?” Và mấu chốt,
điểm bừng tỉnh làm cho ngài đi vào con đường thánh thiện chính là ngài đã chọn
Chúa, tin vào Chúa cho dù con đường Chúa dẫn ngài đi vào lúc đó, là nơi ngục
tù.
Đức Tin Kitô giáo
Theo Công đồng Vatican II, sống Đức Tin là
sống đời mình như một lịch sử cứu độ. Lịch sử ơn cứu độ là một hoa trái đặc
biệt của truyền thống Do Thái giáo, nơi Chúa dẫn dắt Dân riêng của Ngài qua
nhiều thế hệ, cho đến khi Chúa Giêsu nhập thể làm người cứu độ nhân loại. Ý
nghĩa của đức tin thiết yếu là sống đời mình như một lịch sử cứu độ, tức là
phải sẵn sàng phiêu lưu để Chúa dẫn dắt cuộc đời của mình.
Đức Tin trong đời thường
Đức Tin trong đời thường đòi buộc người ta
dám phiêu lưu. Và dấu chỉ để ta nhận ra có Chúa vẫn đang đồng hành với mình
chính là chúng ta vẫn còn niềm hy vọng trong đời sống, và thấy được bề dày
trong tương quan của mình với Chúa mỗi ngày càng dày lên dù trong gian khổ. Đó
thực sự là ý nghĩa đức tin trong đời sống hằng ngày.
Tạm kết
Qua bài chia sẻ rất sâu sắc và thực tế, Cha
Giuse đã giúp các tham dự viên không chỉ nhận ra các lãnh vực của lòng Tin mà
còn hiểu rõ các phẩm chất của lòng Tin ấy. Từ đó, ngài đã dẫn đưa khán thính
giả đến với giáo lý quan trọng của Hội Thánh Công giáo, đó là “Con người chỉ có
thể được cứu rỗi nhờ lòng Tin”. Thật vậy, Thánh Phaolô Tông đồ đã khẳng định:
“Chính do ân sủng và nhờ lòng Tin mà anh em được cứu độ” (Ep 2,8). Với niềm xác
tín đó, kể từ nay, chúng ta sẽ quyết tâm chọn Chúa, tin vào Chúa, và sống với
Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời, cho dù phải gặp muôn vàn gian lao, thử
thách. Được như thế là chúng ta đang: “Sống Đức Tin giữa đời thường.”
Tạ Ân Phúc
KINH TIN KÍNH CỦA CON QUA CUỘC SỐNG
-Năm Đức Tin- và Trọn Cuộc Đời-
Tin là khi làm dấu thánh giá tuyên xưng
mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi: Cha-Con-Thánh Thần.
Tin là chấp nhận- tuân phục giáo lý Hội
Thánh giảng dạy- yêu mến và sống thực hành.
Tin là khôn ngoan- can đảm- dấn thân- hy
sinh- phục vụ vô điều kiện.
Tin là bước vào mầu nhiệm mà người tin
mới cảm nếm Chúa Thiện Hảo thế nào.
Tin là cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm nhưng
không kém phần kỳ thú qua những ân sủng của Chúa thật bất ngờ và vĩ đại.
Tin là khám phá nơi mọi người- mọi vật-
sự quan phòng yêu thương qua Chúa Thánh Thần.
Tin là nhận ra tất cả đều là Hồng Ân đến
từ Chúa qua thanh luyện hay hạnh phúc.
Tin là sống 24/24 với tâm tình của Chúa
trong không gian và thời gian.
Tin là bước đi trong thung lũng tối tăm
và nước mắt, nhưng tâm hồn vẫn thấp lên ánh lửa hy vọng và cậy trông.
Tin là nhận ra những thực tại vô hình
nơi hữu hình và ngược lại.
Tin là sống tâm tình thờ phượng: yêu
mến- hiến dâng- hiệp thông- thanh luyện suốt cuộc đời.
TIN: TÔI TIN- TÔI TIN- TÔI TIN
Tất cả Lời Chúa qua Kinh Thánh- Giáo Hội
và chính tôi qua mầu nhiệm trong đau khổ, thử thách nghiệt ngã của cuộc đời.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh: Cha-
Con- Thánh Thần
Con xin tín thác nơi Chúa: Hôm qua- Hôm
nay- Tương lai- mãi mãi
Amen
Rosa Minh Thu
...........................................................................................................................
PHẦN I: GIÁO LÝ
NĂM ĐỨC TIN
---------------------
Chủ đề 1:
ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ,
ĐỨC TIN CỦA CHÚNG
TA
Bài 1: ĐỨC TIN MỜI GỌI CHÚNG TA LÊN ĐƯỜNG VÀ GẮN BÓ
VỚI CHÚA GIÊSU
1. Lời Chúa
“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với
ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68).
2. Giải thích
Đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, là một
nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa tuôn ban. Để có được đức tin nầy, cần có ân
sủng Thiên Chúa đến trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần.
Vì vậy, tin trước hết là gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa, và tự nguyện
chấp nhận tất cả chân lý được Thiên Chúa mặc khải (x. GLHTCG số 153 và 150).
Đối với Kitô hữu, tin vào Thiên Chúa không thể
tách rời khỏi việc tin vào Đấng Ngài đã sai đến, tức là Con chí ái của Ngài,
đẹp lòng Ngài mọi đàng. Thiên Chúa đã dạy chúng ta phải nghe lời Con của Ngài.
Chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Người: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin
vào Thầy” (Ga 14,1). Chúng ta có thể tin, gắn bó vào Chúa Giêsu Kitô, vì chính
Người là Thiên Chúa, là Ngôi Lời nhập thể. Bởi vì Người “đã thấy Chúa Cha” (Ga
6,46), nên chỉ một mình Người biết Chúa Cha và có thẩm quyền mặc khải Chúa Cha
cho chúng ta (GLHTCG 151).
Như Phêrô, đấng đã tuyên xưng niềm tin và gắn
bó với Chúa Giêsu trọn cả con người, nghĩa là với cả tự do và trí khôn, thì đức
tin của người Kitô hữu thật sự là một hành vi nhân linh. Vì thế, tin vào Thiên
Chúa, vào Chúa Giêsu và gắn bó với những chân lý do Ngài mặc khải không đi
ngược với tự do và trí khôn con người. Trong đức tin, lý trí và ý chí con người
cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa: “Tin là một hành vi của lý trí chấp nhận
chân lý của Thiên Chúa theo lệnh của ý chí được Thiên Chúa tác động nhờ ân
sủng” (GLHTCG số 154-155). Do đó, đời Kitô hữu là một cuộc sống gắn bó với Chúa
Giêsu, Đấng mặc khải Chúa Cha “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). “Chúng
ta đến từ Chúa Kitô, sống trong Chúa Kitô và trở về với Chúa Kitô” (Đức Phaolô
VI).
3. Bài học
1/. H: Đức tin là gì?
T: Đức
tin là một hồng ân của Thiên Chúa, là một nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa
tuôn ban cho nguời Kitô hữu.
2/. H: Phải
hiểu đức tin như thế nào?
T: Tin
là gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa. đồng thời là chấp nhận tất cả chân
lý được Thiên Chúa mặc khải.
3/. H: Vì
sao tin là gắn bó với Thiên Chúa, người Kitô hữu lại còn phải gắn bó với Chúa
Giêsu?
T: Vì
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Ngôi Lời nhập thể, là Con chí ái của Chúa Cha, đẹp
lòng Chúa Cha. Chính Người đã thấy Chúa Cha, nên chỉ mình Người biết Chúa Cha
và mặc khải Chúa Cha cho chúng ta.
4/. H: Trong
đức tin, yếu tố tự do và trí khôn con người có cần thiết không?
T: Cần
thiết, vì tin là một hành vi của lý trí chấp nhận chân lý của Thiên Chúa nhờ
tác động của ân sủng.
4. Quyết tâm thực
hành
Thường xuyên thưa với Chúa: “Lạy Chúa con tin,
xin trợ giúp lòng tin yếu kém của con”.
Bài 2: ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH
TRONG ĐỨC ÁI
1. Lời Chúa
“Đức tin không có hành động thì quả là đức tin
chết” (Gc 2,17).
2. Giải thích
Như đã nói trong bài 1, để có được đức tin nầy,
cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh
Thần. Chính Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa, giúp cho người tín hữu tin vào một
Thiên Chúa, tin vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Một khi tin vào Chúa Giêsu
Kitô, đức tin nầy, nhờ Chúa Thánh Thần tác động làm trổ sinh những lời ngợi
khen và cảm tạ vì các ơn lành đã lãnh được do Chúa ban; thêm vào đó là ý thức
mạnh mẽ về đức công bình và tình yêu chân thành đối với tha nhân (GLHTCG số
153).
Đức tin sống động ấy giúp người tín hữu sống
công bình, một hình thức của bác ái. Sống công bình là biết quyền sở hữu của
tha nhân trên tài sản của họ. Sống công bình là biết tôn trọng của cải của tha
nhân, vì thế cần phải huấn luyện lương tâm ngay thẳng để có thể thực thi công
bình trong đời Kitô hữu.
Đức tin
sống động ấy làm phát sinh những sáng kiến sống bác ái với tha nhân như quảng
đại giúp đỡ tha nhân cách thiết thực, nhất là xoa dịu sự cùng khổ tinh thần và
thể xác; và trong gia đình, đức tin sống động nầy sẽ thúc đẩy bậc làm cha làm
mẹ chuyên tâm giáo dục con cái trở thành những con người có nhân bản và có đức
tin.
Gương mẫu của người Kitô hữu trong điểm nầy
chính là Đức Maria. Mẹ đã sử dụng đức tin sống động để sống đức ái trọn vẹn.
Đức tin của Mẹ đã thúc đẩy Mẹ lên đường thăm viếng bà chị họ và giúp đỡ bà, đã
giúp đỡ gia đình ở Cana khỏi mất mặt; đó là những hành vi bác ái Mẹ thực hiện
nhờ đức tin sống động của Mẹ. Ngoài ra, trong cuộc sống gia đình tại Na-da-rét,
đức tin sống động ấy chiếu toả ra trong ngôi nhà nầy, vì thế nơi đây đức ái
được hỗ trợ bằng đức tin trở thành quy luật sống và nêu gương cho mọi gia đình
trên thế giới.
3. Bài học
1/. H: Nhờ
đâu người ta biết người Kitô hữu có đức tin sống động?
T:
Nhờ đức ái được thể hiện trong
cuộc sống.
2/. H: Đức
ái nầy được thể hiện như thế nào?
T: Trước
hết bằng đời sống công bình đối với tha nhân.
3/. H: Ngoài
ra, đâu là những lãnh vực bác ái cần quan tâm?
T: Đó
là giúp đỡ tha nhân cách thiết thực, đặc biệt những người đau khổ trong tinh
thần và thể xác.
4/. H: Đâu
là gương mẫu của đức tin sống động?
T: Đức
Maria là gương mẫu của đức tin sống động dẫn đến đức ái trọn vẹn.
4. Quyết tâm thực
hành
Để biểu tỏ đức tin sống động, mỗi ngày thực
hiện một việc bác ái như cầu nguyện, giúp đỡ vật chất, thăm viếng tha nhân,
hoặc việc bác ái bằng nụ cười, cái bắt tay.
Bài 3: ĐỨC TIN BẢO ĐẢM ĐIỀU TA HY VỌNG
1. Lời Chúa
“Hãy mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ
chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1 Tx 5,8).
“Đức tin bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là
bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1).
2. Giải thích
Đức tin, đức cậy và đức mến là ba nhân đức đối
thần, nghĩa là các nhân đức nầy có đối tượng chính là Thiên Chúa, giúp người
Kitô hữu sống trong tương quan với Ba Ngôi Chí Thánh. Các nhân đức nầy được
Thiên Chúa phú bẩm trong linh hồn các Kitô hữu, giúp họ có khả năng hành động
như con cái của Ngài, và đáng hưởng sự sống vĩnh cửu. Các nhân đức nầy là bảo
chứng cho sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Thần trong các năng lực của
con người (GLHTCG, số 1812-1813).
Đức tin
nâng đỡ đức cậy vì nhờ đó người Kitô hữu khao khát Nước Trời và đời sống vĩnh
cửu là vinh phúc của họ, khi đặt lòng tin tưởng vào lời hứa của Chúa Giêsu Kitô
và cậy dựa vào sự trợ giúp ân sủng của Chúa Thánh Thần, chứ không dựa vào sức
mạnh của riêng ta.
Đức cậy đáp ứng khát vọng hưởng vinh phúc mà
Thiên Chúa đã đặt trong trái tim mỗi người, đảm nhận những mong đợi đang gợi
hứng cho các hoạt động của con người, thanh luyện những mong đợi đó để quy
hướng chúng về Nước Trời, bảo vệ khỏi sự nản chí của tâm hồn, nâng đỡ khi bị bỏ
rơi, mở rộng trái tim bằng sự mong đợi vinh phúc vĩnh cửu. Sự thúc đẩy của đức
cậy gìn giữ người Kitô hữu khỏi tính ích kỷ và đưa họ đến với vinh phúc của đức
mến (GLHTCG số 1818).
Nguồn gốc và mẫu gương của lòng trông cậy đó là
lòng trông cậy của tổ phụ Áp-ra-ham, người đã mãn nguyện với các lời hứa của
Thiên Chúa nơi I-sa-ac, và đã được thanh luyện nhờ sự thử thách là cuộc hiến
tế. “Ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân
tộc” (Rm 4,18) (GLHTCG số 1819).
Từ lúc khởi đầu việc giảng dạy của Chúa Giêsu,
đức cậy Kitô giáo được khai triển trong lời loan báo các mối phúc. Các mối phúc
nâng niềm hy vọng của người Kitô hữu hướng lên trời, như lên miền Đất hứa mới;
vạch đường tới đó qua những thử thách đang chờ đợi các môn đệ của Chúa Giêsu.
Nhưng nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô và của cuộc khổ nạn của Người, Thiên
Chúa gìn giữ người Kitô hữu trong niềm hy vọng “không phải thất vọng” (Rm 5,5).
Người Kitô hữu có niềm hy vọng “như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn”,
thả sâu vào “nơi Chúa Giêsu đã vào như người tiền phong mở đường cho chúng ta”
(Dt 6,19-20) (GLHTCG 1820).
Đức cậy cũng là vũ khí bảo vệ người Kitô hữu
trong cuộc chiến đấu để được cứu độ: “Hãy mặc áo giáp là đức tin và đức mến,
đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1 Tx 5,8). Đức cậy mang lại cho người
Kitô hữu niềm vui ngay cả trong thử thách: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ
kiên nhẫn lúc gặp gian truân” (Rm 12,12). Đức cậy được diễn tả và nuôi dưỡng
trong kinh nguyện, nhất là trong Lời Kinh của Chúa, là bản toát yếu của tất cả
những gì mà đức cậy khiến người kitô hữu ước ao. Với đức cậy, Hội Thánh cầu
nguyện cho “mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,4) (GLHTCG số 1820).
3. Bài học
1/. H:
Đức cậy là gì?
T: Là
một trong ba nhân đức đối thần, có đối tượng chính là Thiên Chúa, giúp người
Kitô hữu sống trong tương quan với Ba Ngôi Chí thánh.
2/. H: Mục
đích của các nhân đức nầy là gì?
T: Các
nhân đức nầy giúp cho người Kitô hữu có khả năng hành động như con cái của
Thiên Chúa và đáng hưởng sự sống đời đời.
3/. H: Đức
tin nâng đỡ đức cậy như thế nào?
T: Đức
tin giúp cho người Kitô hữu khao khát Nước Trời và sự sống vĩnh cửu là vinh
phúc của họ.
4/. H: Trong
Tân Ước, đức cậy được nói đến ở đâu?
T: Được
loan báo qua các mối phúc, là niềm hy vọng của người Kitô hữu hướng về trời,
miền Đất hứa mới của họ.
4. Quyết tâm thực
hành
Sống thế nào để luôn luôn sẵn sàng trả lời cho
bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của chúng ta, nhưng phải trả lời cách hiền
hòa và với sự kính trọng (x. 1 Pr 3,15).
Bài 4: SỐNG
ĐỨC TIN CÁ NHÂN
TRONG ĐỨC TIN HỘI THÁNH
1. Lời Chúa
“Như thể được ngần ấy nhân chứng đức tin như
đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc
mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giêsu
Kitô là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,1-2a).
2. Giải thích
Đức tin là một hành vi cá nhân, là lời đáp lại
cách tự nguyện của người Kitô hữu trước lời mời gọi của Thiên Chúa; nhưng đức
tin không phải là một hành vi đơn độc. Không ai có thể tin một mình, cũng như
không ai có thể sống một mình. Không ai tự ban đức tin cho mình, cũng như không
ai tự ban sự sống cho mình (GLHTCG 166).
Người Kitô hữu nhận được đức tin từ những kẻ
khác và phải thông truyền đức tin ấy cho kẻ khác. Mỗi người tin như là một mắt
xích trong một xâu chuỗi rộng lớn các kẻ tin. Tôi không thể tin nếu không được
nâng đỡ bằng đức tin của những người khác, và bằng đức tin của tôi, tôi góp
phần vào việc nâng đỡ đức tin của những người khác (GLHTCG số 166).
“Tôi tin”: đây là đức tin của Hội Thánh, được
mỗi tín hữu tuyên xưng, đặc biệt lúc chịu phép Rửa Tội. “Chúng tôi tin”: đây là
đức tin của Hội Thánh, được cộng đoàn tín hữu cử hành phụng vụ tuyên xưng. “Tôi
tin”: đây cũng là Hội Thánh, Mẹ chúng ta, đang lấy đức tin của mình mà đáp lời
Thiên Chúa, và dạy chúng ta nói: “Tôi tin”, “chúng tôi tin” (GLHTCG số 167).
Trước hết, Hội Thánh tin, và như vậy hướng dẫn,
nuôi dưỡng và nâng đỡ đức tin của mỗi người Kitô hữu. Hội Thánh tuyên xưng Chúa
ở khắp nơi, rồi cùng với Hội Thánh và trong Hội Thánh, người Kitô hữu được thúc
đẩy và hướng dẫn để người Kitô hữu cùng tuyên xưng: “Tôi tin”, “chúng tôi tin”
(GLHTCG số 168).
Chính từ Hội Thánh mà người Kitô hữu lãnh nhận
đức tin và đời sống mới trong Chúa Giêsu Kitô nhờ bí tích Rửa Tội. Ơn cứu độ
đến từ một mình Thiên Chúa, nhưng bởi vì người Kitô hữu lãnh nhận đời sống đức
tin nhờ Hội Thánh, nên Hội Thánh là mẹ của người Kitô hữu. Người Kitô hữu tin
Hội Thánh như người mẹ cho người Kitô hữu được tái sinh, chứ người Kitô hữu
không tin vào Hội Thánh như là tác giả của ơn cứu độ. Bởi vì là mẹ của người
Kitô hữu, nên Hội Thánh cũng là người giáo dục đức tin của người Kitô hữu
(GLHTCG số 168-169).
Người Kitô hữu sống đức tin giữa lòng cộng đoàn
địa phương nhờ lãnh nhận các bí tích của Hội Thánh để thờ phượng Thiên Chúa,
được đức tin của cộng đoàn nâng đỡ trong lúc gặp những gian nan thử thách, được
đức tin của cộng đoàn hướng dẫn để gặp gỡ Thiên Chúa, được đức tin của cộng
đoàn giáo dục để hiểu biết và mến yêu Thiên Chúa hơn. Ngoài ra, mỗi người tín
hữu cũng nhận ra trách nhiệm của mình trong việc nâng đỡ, giáo dục và hướng dẫn
đức tin của các Kitô hữu khác. Như thế, nhờ đức tin chỉ bảo, người Kitô hữu
nhận ra tinh thần đồng trách nhiệm và liên đới với nhau trong việc xây dựng đời
sống đức tin của cộng đoàn địa phương.
3. Bài học
1/. H: Hành
vi đức tin là cá nhân, nhưng có đơn độc không?
T: Không,
vì không ai có thể tin một mình nếu không được nâng đỡ bằng đức tin của những
người khác trong Hội Thánh.
2/. H: Đâu là đức tin của Hội Thánh?
T: Đức
tin của Hội Thánh được thể hiện qua tiếng “tôi tin” trong bí tích Rửa tội và
trong việc cử hành phụng vụ, “chúng tôi tin”.
3/. H: Hội
Thánh có trách nhiệm nào trên đức tin của người Kitô hữu?
T: Hội
Thánh hướng dẫn, nuôi dưỡng và nâng đỡ đức tin của người Kitô hữu. Ngoài ra,
Hội Thánh với tư cách là Mẹ, nên có bổn phận giáo dục đức tin cho con cái.
4/. H: Giữa
lòng cộng đoàn, người Kitô hữu sống đức tin thế nào?
T: Người
kitô hữu được lớn lên trong đức tin nhờ lãnh nhận các bí tích, được cộng đoàn
cầu nguyện, nâng đỡ, hướng dẫn để gặp gỡ Thiên Chúa, đồng thời nhận ra bổn phận
của mình đối với cộng đoàn trong việc sống đức tin.
4. Quyết tâm thực
hành
Nhận ra cộng đoàn mình đang sống là một cộng
đoàn những người tin, nên phải cầu nguyện và làm gương tốt để nêu gương cho
những người chưa nhận biết Chúa đang sống chung quanh mình.
Chủ đề 2:
HỘI THÁNH
VÀ SỐNG MẦU NHIỆM HỘI THÁNH
Bài 5: SỐNG
THUỘC TÍNH DUY NHẤT
CỦA HỘI
THÁNH
1. Lời Chúa
“Để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con
ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17,21).
2. Giải thích
Trong kinh Tin kính (Tín Biểu) người Kitô hữu
tuyên xưng Hội Thánh Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền. Bốn đặc
tính nầy nối kết với nhau một cách không thể tách biệt, và nêu rõ những nét căn
bản và sứ vụ của Hội Thánh. Hội Thánh không tự mình có các thuộc tính ấy, nhưng
Chúa Giêsu Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần đã làm cho Hội Thánh được Duy Nhất, Thánh
Thiện, Công Giáo và Tông Truyền và cũng chính Người kêu gọi Hội Thánh hãy thực
hiện từng điều trong các đặc tính đó (GLHTCG số 811).
Hội Thánh Duy Nhất là vì nguồn gốc của mình:
“Khuôn mẫu mực tối cao và nguyên lý của mầu nhiệm nầy, là sự hiệp nhất trong Ba
Ngôi của Thiên Chúa Duy Nhất là Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần.
Hội Thánh Duy Nhất vì Đấng Sáng Lập của mình:
“Quả thật, chính Chúa Con nhập thể... đã nhờ cây thập giá của mình mà giao hoà
mọi người với Thiên Chúa... tái lập sự hợp nhất mọi người trong một dân tộc và
một thân thể.
Hội Thánh Duy Nhất là vì “linh hồn” của mình:
“Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong các tín hữu, đầy tràn và điều khiển toàn Hội
Thánh, làm cho các Kitô hữu hiệp thông với nhau cách kỳ diệu và kết hợp tất cả
trong Chúa Giêsu Kitô cách rất mật thiết, cho nên Ngài là nguyên lý của sự hợp
nhất của Hội Thánh. Vì vậy, theo bản chất, Hội Thánh là Duy Nhất (GLHTCG số
813).
Tuy nhiên, qua dòng thời gian, tội lỗi và những
hậu quả nặng nề của nó không ngừng đe dọa hồng ân là sự hợp nhất, vì vậy thánh
Phaolô đã khuyên phải “duy trì sự hợp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở
thuận hoà gắn bó với nhau” (Ep 4,3) (GLHTCG số 814).
Chính vì thế, toàn thể Hội Thánh, người Kitô
hữu cũng như mục tử, đều có bổn phận quan tâm đến việc tái lập sự hợp nhất; tuy
nhiên ước nguyện nầy vượt quá sức lực và khả năng loài người, vì thế Hội Thánh
đặt hết hy vọng “vào lời Chúa Giêsu Kitô cầu nguyện cho Hội Thánh, vào tình
thương của Chúa Cha đối với Hội Thánh và quyền năng của Chúa Thánh Thần” (GLHTCG
821).
3. Bài học
1/. H: Hội Thánh có những thuộc tính nào?
T: Hội
Thánh có bốn thuộc tính là Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền.
2/. H: Bốn
thuộc tính nầy tương quan với nhau như thế nào?
T: Bốn
thuộc tính nầy nối kết với nhau không tách rời và nói lên những nét căn bản và
sứ vụ của Hội Thánh.
3/. H: Vì
sao Hội Thánh được gọi là Duy Nhất?
T: Hội
Thánh được gọi là Duy Nhất nhờ xuất phát từ Ba Ngôi Thiên Chúa duy nhất: Chúa
Cha là nguồn gốc, Chúa Con là Đấng Sáng lập và Chúa Thánh Thần là linh hồn của
Hội Thánh.
4/. H:
Hội Thánh phải làm gì để duy trì sự hợp nhất?
T: Hội
Thánh phải quan tâm đến việc tái lập và cầu nguyện cho sự hiệp nhất vì chỉ có
Thiên Chúa mới làm cho Hội Thánh được Duy Nhất.
4. Quyết tâm thực
hành
Phải cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong giáo xứ
và nhìn tha nhân với những điểm tương đồng hơn là khác biệt để xây dựng sự hiệp
nhất.
Bài 6: SỐNG THUỘC TÍNH THÁNH THIỆN
CỦA HỘI THÁNH
1. Lời Chúa
“Trong Chúa Giêsu Kitô, Người đã chọn ta trước
cả khi tạo thành vũ trụ để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh
thiện nhờ tình thương của Người” (Ep 1,4).
2. Giải thích
Thánh Công Đồng Vaticanô II, trong Hiến Chế về
Hội Thánh, số 39 đã viết: “Chúng tôi tin Hội Thánh, một mầu nhiệm được Thánh
Công Đồng trình bày, có tính cách Thánh Thiện, bất khả khuyết. Thật vậy, Chúa
Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, được ca
tụng là “Đấng Thánh Duy Nhất”, đã yêu dấu Hội Thánh như Hiền Thê của mình và
đã tự hiến vì Hội Thánh, để thánh hoá Hội
Thánh, và kết hợp Hội Thánh với mình như Thân Thể của mình, và ban dư đầy hồng
ân của Chúa Thánh Thần để làm vinh danh Thiên Chúa”. Vì vậy, Hội Thánh là “dân
Thánh của Thiên Chúa” và các phần tử của Hội Thánh được gọi là “các thánh”
(GLHTCG số 823)
Nhờ kết hợp với Chúa Giêsu Kitô, Hội Thánh có
khả năng thánh hoá: “Tất cả các công việc của Hội Thánh đều hướng về mục đích
là thánh hoá con người trong Chúa Giêsu Kitô và tôn vinh Thiên Chúa”. Hội Thánh
được giao cho “đầy đủ các phương tiện cứu độ”, chính vì thế, trong Hội Thánh
chúng ta đạt đến sự thánh thiện nhờ ân sủng của Thiên Chúa (GLHTCG số 824).
Đức mến là linh hồn của sự thánh thiện mà mọi
tín hữu được kêu gọi đạt tới. Đức mến hướng dẫn, hình thành và đưa tới mục
đích, tất cả các phương tiện thánh hoá (GLHTCG số 826).
Mặc dù Hội Thánh là Thánh Thiện, nhưng luôn
mang trong lòng mình những kẻ tội lỗi,
vì thế Hội Thánh luôn tiếp tục việc sám hối và canh tân. Tất cả các chi thể của
Hội Thánh, kể cả các thừa tác viên, đều phải nhận mình là kẻ tội lỗi. Như vậy,
Hội Thánh quy tụ những người tội lỗi đã được lãnh nhận ơn cứu độ của Chúa Giêsu
Kitô, nhưng còn đang trên đường thánh hoá (GLHTCG số 827).
3. Bài học
1/. H: Vì sao Hội Thánh được gọi là Thánh Thiện?
T: Vì
Thiên Chúa chí thánh sáng lập Hội Thánh; Chúa Giêsu Kitô đã tự hiến để thánh
hoá và Thần Khí thánh thiện làm cho Hội Thánh được sống.
2/. H: Bởi
đâu Hội Thánh có khả năng thánh hoá?
T: Nhờ
kết hợp với Chúa Giêsu Kitô, mọi hoạt động của Hội Thánh đều hướng về mục đích
là thánh hoá con người và tôn vinh Thiên Chúa.
3/. H:
Đâu là linh hồn của sự thánh thiện trong Hội Thánh?
T: Đó
là đức mến, vì đức mến là cùng đích của các phương tiện thánh hoá.
4/. H: Hội
Thánh là Thánh Thiện, nhưng vẫn đầy tội lỗi, vậy Hội Thánh phải làm gì?
T: Hội
Thánh luôn tiếp tục việc sám hối và canh tân để trở nên một “Hội Thánh tinh
tuyền và thánh thiện”.
4. Quyết tâm thực
hành
“Hỡi các kitô hữu, hãy ý thức về phẩm giá của
bạn” (Thánh Lêô Cả, Giáo Hoàng).
Bài 7: SỐNG THUỘC TÍNH CÔNG GIÁO
CỦA HỘI THÁNH
1. Lời Chúa
“Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với
nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi
chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn thân lớn
lên và được xây dựng trong tình bác ái” (Ep 4,16).
2. Giải thích
Công Đồng Vaticanô II đã minh định lại ý nghĩa
của cụm từ “Hội Thánh Công Giáo” theo đó, tất cả mọi người đều được kêu gọi trở
thành Dân Thiên Chúa và Hội Thánh là phương tiện cứu rỗi cần thiết mà Chúa
Giêsu Kitô đã thiết lập. Những ai muốn được dự phần vào sự sống đời đời cần
phải thuộc về Hội Thánh qua những cách thế khác nhau.
Hội Thánh là Công Giáo theo hai nghĩa:
- Hội Thánh là Công Giáo vì trong Hội Thánh có
Chúa Giêsu Kitô hiện diện. “Ở đâu có Chúa Giêsu Kitô, ở đó có Hội Thánh Công
Giáo” (Ignatiô Antiôkia). Nơi Hội Thánh, tồn tại sự sung mãn của Thân Thể Chúa
Giêsu Kitô, được kết hợp với Đầu của mình, điều đó có nghĩa là Hội Thánh đã
nhận được từ Chúa Giêsu Kitô đầy đủ các phương tiện cứu rỗi. Theo ý nghĩa căn
bản nầy, Hội Thánh đã là Công Giáo từ ngày lễ Ngũ Tuần và mãi mãi sẽ là Công
Giáo cho đến ngày Chúa quang lâm (GLHTCG số 830).
- Hội Thánh là Công Giáo bởi vì Hội Thánh được
Chúa Giêsu Kitô sai đến với toàn thể nhân loại. “Mọi người được kêu gọi vào dân
mới của Thiên Chúa. Vì thế, dân nầy, vẫn là một dân duy nhất, phải được mở rộng
khắp trần gian và qua mọi thế hệ, để kế hoạch của thánh ý Thiên Chúa được hoàn
thành... Đặc tính phổ quát nầy, làm vinh dự cho Dân Thiên Chúa, là một hồng ân
của chính Chúa, nhờ đó Hội Thánh Công Giáo, một cách hữu hiệu và liên lỉ, hướng
tới việc quy tụ toàn thể nhân loại cùng mọi điều thiện hảo của họ, dưới quyền
Chúa Giêsu Kitô là Đầu, trong sự hợp nhất của Thần Khí của Người” (LG số 13)
(GLHTCG số 831).
Mỗi Hội Thánh địa phương cũng là “Công Giáo”.
Hội thánh Chúa Giêsu Kitô thực sự hiện
diện trong mọi cộng đoàn hợp pháp các Kitô hữu ở các địa phương, các cộng đoàn
gắn bó với các mục tử của mình và trong Tân Ước được gọi là các Hội Thánh...
Trong các cộng đoàn đó, các Kitô hữu được quy tụ nhờ việc rao giảng Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô, và mầu nhiệm Bữa Tiệc của Chúa được cử hành... Trong các cộng
đoàn đó, tuy thường là nhỏ bé và nghèo nàn hay sống tản mát, vẫn có Chúa Giêsu
Kitô hiện diện nhờ sức mạnh của Người mà Hội Thánh Duy Nhất, Thánh Thiện, Công
Giáo và Tông Truyền được kết hợp (GLHTCG số 832-834).
Được tháp nhập hoàn toàn vào cộng đoàn Hội
Thánh, là những ai có Thần Khí của Chúa Giêsu Kitô, chấp nhận cơ cấu trọn vẹn
của Hội Thánh và tất cả các phương tiện cứu độ đã được thiết lập trong Hội
Thánh, và được kết hợp trong cơ cấu hữu hình của Hội Thánh với Chúa Giêsu Kitô,
Đấng hướng dẫn Hội Thánh nhờ Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục, bằng những mối dây
là việc tuyên xưng đức tin, là các bí tích, là sự cai quản và hiệp thông trong
Hội Thánh. Những người như thế thuộc về Hội Thánh Công Giáo (GLHTCG số 836).
Do những đòi hỏi sâu sắc của tính Công Giáo,
vâng theo lệnh truyền của Đấng Sáng Lập của mình, Hội Thánh cố gắng loan báo
Tin Mừng cho tất cả mọi người, và lệnh truyền giáo nầy bắt nguồn từ tình yêu
vĩnh cửu của Ba Ngôi Chí Thánh; mục đích tối hậu của việc truyền giáo là làm
cho loài người được tham dự vào sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong
Thần Khí tình yêu của chính các Ngài. Hội Thánh luôn nhận lấy bổn phận và sức
mạnh thúc đẩy việc truyền giáo của mình từ chính tình yêu của Thiên Chúa đối
với tất cả mọi người (GLHTCG 849-851).
3. Bài học
1/. H: “Hội Thánh Công Giáo” nghĩa là gì?
T: Là
mọi người đều được kêu mời trở thành Dân Thiên Chúa và Hội Thánh là phương tiện
cứu rỗi cần thiết mà Chúa Giêsu Kitô đã thiết lập.
2/. H: Hội
Thánh là Công Giáo theo nghĩa nào?
T: Theo
hai nghĩa nầy:
- Một là vì nơi Hội Thánh có
Chúa Giêsu Kitô hiện diện và nhận được từ nơi Người đầy đủ các phương tiện cứu
rỗi;
- Hai là vì Hội Thánh được Chúa
Giêsu Kitô sai đến với toàn thể nhân loại.
3/. H: Hội
Thánh địa phương có là Công Giáo không?
T: Có,
vì trong các Hội Thánh địa phương, các Kitô hữu được quy tụ nhờ việc rao giảng
Tin Mừng và cử hành Bữa Tiệc của Chúa. Đồng thời vẫn có Chúa Giêsu Kitô hiện
diện và nhờ sức mạnh của Người mà Hội Thánh Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và
Tông Truyền được kết hợp.
4/. H: Tính
Công Giáo của Hội Thánh đòi hỏi điều gì?
T: Tính
Công Giáo của Hội Thánh đòi hỏi phải truyền giáo, vì đó là động lực xuất phát
từ tình yêu vĩnh cửu của Ba Ngôi Chí Thánh và vì Thiên Chúa muốn cho mọi người
nhận biết chân lý và được ơn cứu độ.
4. Quyết tâm thực
hành
Mỗi gia đình hy sinh và cầu nguyện cho một gia
đình lương dân để họ được sát nhập vào Dân Thiên Chúa.
Bài 8: SỐNG THUỘC TÍNH TÔNG TRUYỀN
CỦA HỘI THÁNH
1. Lời Chúa
“Anh em không còn phải là người xa lạ hay người
tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người
nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn
sứ, còn đá tảng góc tường là chính Chúa Giêsu Kitô”(Ep 2,19-20).
2. Giải thích
Hội Thánh có đặc tính Tông Truyền vì được đặt
nền trên các Tông Đồ, và điều đó được hiểu theo ba nghĩa:
- Hội Thánh đã và đang được xây dựng trên “nền
móng là các Tông Đồ”, là những chứng nhân được Chúa Giêsu Kitô tuyển chọn và
sai đi,
- Với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng
hằng ngự trong Hội Thánh, Hội Thánh gìn giữ và lưu truyền giáo huấn, kho tàng
quý báu, những lời lành thánh nghe được từ các Tông Đồ,
- Hội Thánh được tiếp tục giảng dạy, thánh hoá
và hướng dẫn bởi các Tông Đồ cho đến khi Chúa Giêsu Kitô trở lại nhờ những vị
kế nhiệm các ngài trong nhiệm vụ mục tử: Giám mục đoàn, với sự trợ giúp của các
linh mục, hợp nhất với Đấng kế nhiệm Thánh Phêrô là mục tử tối cao của Hội
Thánh (GLHTCG số 857).
Toàn thể Hội Thánh có thuộc tính Tông Truyền
vì, nhờ các vị kế nhiệm thánh Phêrô và các Tông Đồ, Hội Thánh vẫn giữ nguyên
nguồn gốc của mình trong sự hiệp thông đức tin và sự sống. Hội Thánh còn có
thuộc tính Tông Truyền vì “được sai đi” khắp trần gian; tất cả các chi thể của
Hội Thánh tuy bằng những cách khác nhau, đều tham dự vào tính chất “được sai
đi” này. Quả vậy, ơn gọi Kitô hữu, tự
bản chất, cũng là ơn gọi làm việc tông đồ. Được gọi là “việc tông đồ” mọi hoạt
động của Nhiệm Thể” nhằm làm cho Nước Chúa Giêsu Kitô ở mọi nơi trên trần thế
được rộng mở (GLHTCG số 863).
3. Bài học
1/. H: Hội Thánh Tông Truyền là gì?
T: Là
Hội Thánh được xây dựng trên nền móng vững chắc là mười hai Tông đồ của Con
Chiên, những chứng nhân được Chúa Giêsu tuyển chọn và sai đi.
2/. H: Được
gọi là Tông Truyền, Hội Thánh có bổn
phận nào?
T: Hội
Thánh có bổn phận bảo tồn và lưu truyền giáo huấn của các Tông Đồ.
3/. H: Trong
Hội Thánh, những ai có bổn phận đặc biệt để bảo tồn và lưu truyền giáo huấn
nầy?
T:
Là Giám Mục đoàn, những người kế
nhiệm các Tông Đồ trong nhiệm vụ mục tử, cùng với sự trợ giúp của các linh mục,
hợp nhất với Đấng kế nhiệm Thánh Phêrô, mục tử tối cao của Hội Thánh.
4/. H: Vì
sao Hội Thánh có thuộc tính Tông Truyền?
T: Vì
nhờ các vị kế nhiệm Thánh Phêrô và các Tông Đồ nên Hội Thánh vẫn bảo toàn nguồn
gốc đức tin Tông Truyền của mình.
5/. H: Hội
Thánh còn tìm đâu ra thuộc tính Tông Truyền của mình nữa?
T: Hội
Thánh còn có thuộc tính Tông Truyền vì “được sai đi” khắp trần gian, và mọi chi
thể của Hội Thánh đều tham dự vào tính chất “được sai đi” này.
4. Quyết tâm thực
hành
Ý thức thuộc tính
Tông Truyền, mỗi kitô hữu quyết tâm sống hiệp thông tích cực với các kitô hữu
khác trong cùng một giáo xứ.
Chủ đề 3:
THÁNH
KINH - LỜI CHÚA CHO ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
CỦA CHÚNG TA
Bài 9: LỜI CHÚA KHƠI DẬY ĐỨC TIN
1. Lời Chúa
“Có đức tin
là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,17).
2. Giải thích
Thiên
Chúa mặc khải chính mình bằng nhiều cách khác nhau cho con người nhận biết Ngài
là chân lý tối hậu (GLHTCG 143). Và Tin là hành vi quy phục chân lý mặc khải,
vì Đức tin được hiểu là sự đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa (GLHTCG, số 142).
“Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mặc khải chính
mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài (Ep 1,9). Nhờ đó, loài
người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa
Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa (Ep 2,18; 2 Pr 1,4).
Trong việc mặc khải nầy, với tình thương chan chứa của Ngài, Thiên Chúa vô hình
ngỏ lời với loài người như với bạn hữu (Xh 33,11/Ga 15,14-15). Ngài đối thoại
với họ (Br 3,38) để mời gọi và đón nhận họ hiệp nhất với Ngài. Công cuộc mặc
khải nầy được thực hiện bằng các hành động và lời nói liên kết mật thiết với nhau.
Nên các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu rỗi, bày tỏ, củng cố giáo
lý, và những điều được giải thích qua lời nói. Còn lời nói thì công bố các việc
làm và khơi sáng mầu nhiệm trong đó. Nhờ mặc khải nầy, chân lý thâm sâu của
Thiên Chúa cũng như về phần rỗi loài người, được sáng tỏ nơi Chúa Kitô, Đấng
trung gian, đồng thời là sự viên mãn của toàn thể mặc khải” (DV 2).
Chúa
Giêsu là “Lời nhập thể” của Thiên Chúa, và sứ điệp Tin Mừng của Ngài là tỏ bày
tình thương và ý định cứu độ của Thiên Chúa. Ngài kêu gọi mọi người “sám hối và
tin” (Mc 1,14) để được cứu rỗi. Chính lời rao giảng của Ngài đã khơi dậy đức
tin nơi người nghe. Câu chuyện sau đây là một minh chứng cụ thể: “... Vậy khi
đến gặp Người, dân Samari xin Người
ở lại với họ, và Người đã ở lại với họ hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giêsu
nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: Không còn phải vì lời chị kể lại mà
chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng Cứu chuộc trần gian” (Ga 4,40-42).
Thật vậy, Đức Giêsu là một con người ở trong lịch sử và cũng là Con Thiên Chúa
và là Thiên Chúa. Ngài đến để nói lời Thiên Chúa, mời gọi mọi người nhận biết,
tin và yêu mến Đấng họ phải tôn thờ. Lời Chúa khơi mở đức tin cho người nghe,
đưa họ đến với Thiên Chúa, Đấng là Cha yêu thương cứu độ con người, đồng thời
giúp họ nhận ra ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Thiên Chúa.
Các tông đồ
đã nhận lãnh từ Chúa Giêsu sứ mạng rao giảng Lời để khơi dậy đức tin: “Anh em
hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo…” (Mc
16,15-16). Và “các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với
các ông và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông” (Mc 16,20). Thánh Phaolô cảm nhận mối
liên hệ sâu xa giữa đức tin và Lời Chúa, nên ngài bày tỏ như sau: “Lời Thiên
Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi
rao giảng để khơi dậy đức tin... Quả vậy, có tin thật trong lòng mới được nên
công chính, có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu rỗi.. Nhưng làm sao tin
Đấng mà họ không nghe? Làm sao nghe nếu không có ai giảng?.. Ấy vậy, có đức tin
là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,8-14).
Tiếp nối truyền thống các tông đồ, các
chứng nhân của Chúa Kitô muôn thế hệ đã đi khắp thế gian để rao giảng lời Chúa
nhằm khơi dậy đức tin cho mọi người trước khi rửa tội cho họ. Với ơn Chúa Thánh
Thần, lời rao giảng có “sức quy tụ” và “khơi dậy đức tin” nơi người nghe, và
làm nên Hội Thánh (Cv 2). Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nhấn mạnh: “Chính việc
rao giảng Lời Chúa làm phát sinh ra đức tin, nhờ đó, ta gắn bó hết lòng với
chân lý mặc khải và hoàn toàn phó thác cho Chúa Kitô: ‘Có đức tin là nhờ nghe
giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô’ (Rm 10,17). Trọn lịch sử cứu
độ đã dần dà cho thấy mối quan hệ thâm sâu giữa Lời Thiên Chúa và đức tin, một
đức tin được hoàn thành trong cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Như thế, đức tin có
dáng dấp cuộc gặp gỡ với một Đấng mà ta ký thác trọn đời cho. Hôm nay Đức Giêsu
Kitô vẫn đang hiện diện trong lịch sử, trong Thân Thể Người là Hội Thánh; do
đó, hành vi đức tin của ta vừa có tính riêng tư vừa có tính Hội Thánh” (VD 25).
Và Đức Thánh Cha lưu ý chúng ta:
“Chúa ban ơn cứu rỗi cho mọi người thuộc mọi thời đại. Tất cả chúng ta đều hiểu
rằng, thật rất cần có ánh sáng của Chúa Kitô chiếu soi mọi lãnh vực của nhân
loại.... Vấn đề không phải là rao giảng một lời an ủi, mà là một lời gây nên sự
đoạn tuyệt, mời gọi hoán cải, giúp người ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa, nhờ đó,
làm phát sinh một chồi lộc của một nhân loại mới” (VD 93).
3. Bài học
1/. H: Thiên
Chúa có tỏ mình ra cho con người không?
T: Thiên Chúa đã tự mặc khải chính mình cho con
người bằng việc dần dần dùng lời nói và việc làm mà thông truyền mầu nhiệm
riêng của Ngài (GLHTCG 69).
2/. H: Thiên Chúa tự mặc khải chính mình cách trọn
vẹn khi nào?
T: Thiên Chúa đã tự mặc khải chính mình cách
trọn vẹn khi sai chính Con Ngài đến trần gian. Nơi Chúa Con, Thiên Chúa đã
thiết lập Giao ước của Ngài đến muôn đời. Con Thiên Chúa là Lời tối hậu của
Chúa Cha nói với nhân loại. Sau Người, không còn mặc khải nào khác nữa (GLHTCG
73).
3/. H: Làm
sao để khơi dậy đức tin cho ta và cho người khác?
T: Thánh
Phaolô dạy rằng: “Đức tin có được là nhờ nghe Lời”. Vì thế, phương cách hữu
hiệu để khơi dậy đức tin cho ta và cho người khác là chăm chỉ lắng nghe và loan
báo Lời Chúa.
4/. H: Làm sao để
nghe được lời Chúa dạy?
T: Để nghe được lời Chúa dạy, ta phải mở
lòng lắng nghe và chuyên cần đọc Thánh Kinh.
4. Quyết tâm Thực
hành
Để
đức tin ngày càng thêm lớn mạnh, mỗi người cố gắng chăm đọc Thánh Kinh và sống
theo Lời Chúa dạy (lectio divina - Verbum Domini 86-87).
Bài 10: THÁNH KINH -
LỜI MẶC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA
1. Lời Chúa
“Con đã ban
cho họ lời mà Cha đã ban cho Con, họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng
Con từ Cha mà đến... Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ, Lời Cha là sự thật”
(Ga 17,7.17).
2. Giải thích
Mọi
chân lý đức tin đều phát xuất từ Thiên Chúa, nghĩa là đều dựa trên lời Thiên
Chúa mặc khải cho chúng ta biết. Những mặc khải đó được ghi chép lại thành
Thánh Kinh, nên Thánh Kinh được hiểu là lời Thiên Chúa nói với loài người. Thánh Kinh (Cựu Ước: 46 cuốn, và Tân Ước: 27 cuốn) không phải là tác phẩm do
loài người, nhưng là Sách Thánh, là Sách Mặc khải, vì đó là Lời Thiên Chúa ngỏ với loài người qua ngôn ngữ loài
người. Vì vậy, Sách chỉ là phương
tiện chuyên chở, còn Lời là nội dung mặc khải của Thiên Chúa cho loài người,
qua các giai đoạn lịch sử của họ. Và
mặc khải tối hậu và trọn vẹn của Thiên Chúa tìm thấy trong Chúa Giêsu Kitô,
Ngôi Lời Nhập Thể: “Thuở xưa, nhiều lần, nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha
ông chúng ta qua các Tiên tri (Cựu Ước) nhưng vào thời sau hết nầy, Ngài đã nói
với chúng ta qua Thánh Tử” (Tân Ước) (Dt
1,1-2).
“Toàn
bộ Thánh Kinh (Cựu Ước và Tân Ước) là một cuốn sách duy nhất, và cuốn sách duy
nhất ấy chính là Chúa Kitô, bởi vì toàn bộ Thánh Kinh nói về Chúa Kitô và toàn
bộ Thánh Kinh được hoàn tất trong Chúa Kitô” (GLHTCG 134). Chúa Kitô là “tâm
điểm” của toàn bộ Thánh Kinh, vì Người là Lời trọn vẹn của Thiên Chúa ngỏ với
loài người (DV 15). Vì thế, thánh Hiêrônimô (380) nói:“Ai không biết Thánh Kinh
là không biết Chúa Kitô”.
Hiến chế
tín lý về mặc khải của Thiên Chúa Dei Verbum dạy: “Thánh Kinh là lời Chúa nói,
được ghi chép lại dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần” (DV 8), và giải thích
rằng: “Những gì Thiên Chúa mặc khải mà Thánh Kinh chứa đựng và trình bày, đều
được viết ra dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần. Thực vậy, Mẹ Hội Thánh, nhờ
đức tin tông truyền, xác nhận rằng, toàn bộ sách Cựu Ước cũng như Tân Ước với
tất cả các thành phần, đều là Sách Thánh
và được ghi vào bản chính lục của Thánh Kinh. Bởi lẽ Sách Thánh được viết
ra dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần (Ga
20,31/2 Tm 3,16/2 Pr 1,19-21/2 Pr 3,15-16),
nên tác giả của các sách ấy là chính Thiên Chúa và chúng được lưu truyền
cho Hội Thánh đúng như vậy. Nhưng để viết các Sách Thánh, Thiên Chúa đã chọn
những con người và dùng họ trong khả năng và phương tiện của họ, để khi chính
Ngài hành động trong họ và qua họ, họ viết ra như những tác giả đích thực, tất
cả những gì Thiên Chúa muốn, và chỉ viết những điều đó mà thôi” (DV 11a). Và
Công đồng còn nói:“Phải xem mọi lời các tác giả được linh ứng viết ra, tức các
Thánh sử, là những lời của Chúa Thánh Thần, nên phải công nhận rằng Thánh Kinh
dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, những chân lý mà Thiên
Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại vì phần rỗi chúng ta” (DV 11b).
Sách Giáo
Lý của Hội thánh Công giáo dạy: “Qua tất cả các lời ở trong Thánh Kinh, Thiên
Chúa chỉ nói MỘT LỜI, là Ngôi Lời duy nhất của Ngài. Trong Ngôi Lời, Thiên Chúa
bày tỏ tất cả về chính mình Ngài (GLHTCG 101-102). “Mặc dầu các sách hợp thành
bộ Thánh Kinh có khác biệt nhau mấy đi nữa, Thánh Kinh vẫn chỉ là MỘT, bởi kế
hoạch của Thiên Chúa chỉ có một, và Đức Kitô Giêsu là trung tâm và trái tim của
kế hoạch ấy” (GLHTCG 112).
Nói
đến Thánh Kinh thì cũng phải nhắc đến Thánh Truyền: Thánh Truyền hay còn gọi là
Truyền thống đức tin sống động của Hội Thánh, dựa trên mặc khải Thánh Kinh, bắt
nguồn từ các tông đồ. Tóm lại, khái niệm “Thánh Truyền” muốn diễn tả rằng “nhờ
hành động của Chúa Thánh Thần và dưới sự hướng dẫn của Huấn Quyền, Hội Thánh
truyền đạt lại cho mọi thế hệ tất cả những gì đã được mặc khải trong Chúa Kitô”
(VD 18). Như vậy, Thánh Truyền góp phần cùng với Thánh Kinh bảo toàn và lưu
truyền mặc khải của Thiên Chúa cho nhân loại qua Hội Thánh. Do đó, Thánh Kinh,
lời mặc khải của Thiên Chúa, cần phải được đọc và giải thích trong Thánh
Truyền. Công đồng Vaticanô II dạy rằng: “Những gì Thiên Chúa đã mặc khải để cứu
rỗi muôn dân, thì Ngài đã ân cần sắp đặt để luôn được bảo toàn và lưu truyền
nguyên vẹn cho mọi thế hệ. Bởi thế, Chúa Kitô, nơi Người, Thiên Chúa tối cao
hoàn tất trọn vẹn nguồn mặc khải (2 Cr 1,20; 3,16-4,6). Người đã truyền dạy các
Tông đồ rao giảng cho mọi người Tin Mừng được hứa trước qua miệng các Tiên tri
(Cựu Ước), được chính Người thực hiện và công bố (Tân Ước). Các ngài rao giảng
Tin Mừng như NGUỒN mọi Chân lý cứu rỗi và Lề luật luân lý, đồng thời thông ban
cho họ các ân thiêng. Việc nầy đã được thực hiện, một phần do các Tông đồ: hoặc
qua lời giảng dạy, gương lành và các thể chế các ngài đã truyền lại những gì đã
lãnh nhận từ miệng Chúa Kitô khi được chung sống với Người và đã thấy Người
hành động, hoặc do đã học biết được nhờ Chúa Thánh Thần gợi ý (Truyền thống
sống động). Phần khác, do chính các
ngài và những người phụ tá các ngài đã viết lại Tin Mừng cứu rỗi dưới sự linh
ứng của cùng một Chúa Thánh Thần (Thánh Kinh Tân ước)” (DV 7). “Thánh truyền do các Tông đồ truyền lại, được tiến triển
trong Hội Thánh, dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Thực vậy, các sự việc và
lời nói truyền lại, được hiểu biết thấu đáo hơn, nhờ sự chiêm ngắm và học hỏi
của các tín hữu, những người đã ghi nhận các điều đó trong lòng (Lc
2,19.51)...Nhờ Thánh Truyền, Hội Thánh biết được toàn bộ chính lục Thánh Kinh,
và cũng nhờ Thánh Truyền, mà Thánh Kinh được hiểu biết thấu đáo hơn, cũng như
Thánh Truyền làm cho Thánh Kinh không ngừng hoạt động” (DV 8).
3. Bài học
1/. H:
Thánh Kinh là sách gì ?
T: “Thánh
Kinh là Lời Thiên Chúa nói, được ghi chép lại dưới sự linh ứng của Chúa Thánh
Thần” (GLHTCG 81), nên cũng gọi là Sách mặc khải.
2. H: Thánh
Truyền là gì?
T:
Thánh Truyền là truyền thống đức
tin sống động của Hội Thánh bắt nguồn từ các tông đồ, qua đó Hội Thánh, nhờ
Thần Chân Lý soi sáng, trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến bằng đời sống
và việc rao giảng Lời Thiên Chúa đã được Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần ký thác
cho các tông đồ (x. GLHTCG 81).
3/. H: Thánh
Kinh gồm mấy phần?
T: Thánh
Kinh có 2 phần: Cựu ước gồm 46 cuốn và Tân ước gồm 27 cuốn.
4/. H: Hội
Thánh dạy ta điều gì về sách Thánh Kinh?
T: Hội
Thánh dạy rằng: “Toàn bộ Thánh Kinh là một cuốn sách duy nhất, và cuốn sách duy
nhất ấy chính là Chúa Kitô, bởi vì toàn bộ Thánh Kinh nói về Chúa Kitô và toàn
bộ Thánh Kinh được hoàn tất trong Chúa Kitô (GLHTCG 134).
4. Quyết tâm thực
hành
Xác tín
“Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105)
để luôn tìm đến với Thánh Kinh - Lời Chúa - khi an vui cũng như lúc buồn phiền,
khi hạnh phúc cũng như lúc gặp thử thách, hầu nhận ra Thánh ý Chúa muốn nói với
chúng ta.
Bài 11: THÁNH KINH
TRONG
ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH
1. Lời Chúa
“Mẹ
và anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).
“Phúc thay
kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc 11,28).
2. Giải thích
Hiến
chế tín lý về mặc khải của Thiên Chúa nói lên mối bận tâm của Hội Thánh trong
việc làm thế nào để cho Lời Chúa “lớn lên và sinh hiệu quả” (Mt 13,8; Mc 4,8;
Lc 8,8) trong đời sống Hội Thánh và nơi tâm hồn mỗi người tín hữu, nhờ việc yêu
mến, học hỏi, suy gẫm, và đem ra thực hành.
Thánh
Kinh ở ngay giữa lòng Hội Thánh, khơi dậy đức tin và mời gọi mọi người gắn bó
với Thiên Chúa. Thế nhưng, nhìn vào thực tế đời sống, chúng ta phải thừa nhận
rằng nhiều Kitô hữu, vì không am
hiểu Thánh Kinh, đã làm giảm “hiệu năng tác thánh” của Lời Chúa nơi tâm hồn họ,
hoặc vì ít tiếp cận Thánh Kinh, nên chỉ biết Thánh Kinh cách phiến diện, hoặc
rất mơ hồ về sứ điệp Tin Mừng. Vì thế, Hội Thánh khuyên dạy mỗi một người tín
hữu hãy nhờ Chúa Thánh Thần “khơi nguồn”, nhận ra trách nhiệm đối với kho tàng
mặc khải, để tìm từ nơi Lời Chúa, một sự hiện diện đúng đắn và đích thực của
mình giữa lòng thế giới.
Muốn hiểu Kinh Thánh, mỗi người đang được
mời gọi làm cho đức tin cá nhân mình hòa nhịp với đức tin của toàn thể Hội
Thánh, nghĩa là đặt mình dưới sự hướng dẫn của Huấn Quyền của Hội Thánh, vì
“nhiệm vụ giải thích đích thực Lời Chúa đã được viết ra hay lưu truyền sống
động chỉ được ủy thác cho Quyền Giáo Huấn của Hội Thánh, và Hội Thánh thi hành
quyền đó nhân danh Chúa Giêsu Kitô” (DV 10). Từ đó, Hiến chế tín lý về mặc khải
của Thiên Chúa được xem là nền tảng cho những nguyên tắc căn bản của Hội Thánh
trong việc tìm hiểu Thánh ý Thiên Chúa qua Thánh Kinh xét như là Lời Mặc khải.
Hiến chế tín lý về mặc khải của Thiên Chúa xác định vị trí và vai trò quan
trọng của Hội Thánh trong đời sống của Hội Thánh; Hiến chế nhấn mạnh:
- “Hội Thánh luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa, nhất là
trong Phụng vụ thánh, Hội Thánh không ngừng lấy Bánh ban sự sống từ bàn tiệc
Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu”(DV 21
// Verbum Domini 72).
- “Cùng với Thánh Truyền, Thánh Kinh đã và đang được Hội Thánh xem như là
quy luật tối thượng hướng dẫn đức tin được Thiên Chúa linh ứng và đã được ghi
chép một lần cho muôn đời, Thánh Kinh phân phát cách bất di bất dịch Lời của
chính Chúa và làm vang dội tiếng nói của Chúa Thánh Thần qua các Tiên tri cùng
các Tông đồ” (DV 21).
- “Mọi lời giảng dạy trong Hội Thánh cũng như chính Đạo thánh Chúa Kitô
phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn. Trong các Sách Thánh, Cha trên
trời, bằng tất cả lòng trìu mến, đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ. Lời
Chúa còn có sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Hội Thánh, là
lương thực linh hồn, là nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho
con cái Hội Thánh” (DV 21 // Verbum Domini 73).
Và sau khi
đưa ra những chỉ dẫn cho riêng từng thành phần Dân Chúa về việc tiếp cận Thánh
Kinh là Lời của Thiên Chúa (DV 21-25), công đồng nhắn nhủ: “Ước gì họ hăng hái
tiếp xúc với chính văn bản Thánh Kinh nhờ Phụng vụ thánh dồi dào Lời Chúa, nhờ
sốt sắng đọc Thánh Kinh, nhờ những lớp học hỏi thích hợp, hoặc nhờ bất cứ
phương thế nào mà nay đã được các chủ chăn trong Hội Thánh chấp nhận và ân cần
phổ biến… Nhưng mọi người cũng nên nhớ rằng, kinh nguyện phải đi đôi với việc
đọc Thánh Kinh để có sự đối thoại giữa Thiên Chúa với con người, vì chúng ta
ngỏ lời với Người khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Người nói lúc chúng ta đọc
các sấm ngôn thần linh” (DV 25).
3. Bài học
1/. H: Trong
toàn bộ Thánh Kinh, các sách nào giữ vị trí trung tâm cho đời sống Hội Thánh?
T: Bốn
sách Tin Mừng giữ vị trí trung tâm, vì “Chúa Giêsu Kitô là tâm điểm của các
sách ấy” (GLHTCG 139).
2/. H: Hội
Thánh dạy ta phải tôn kính Thánh Kinh như thế nào?
T: Hội
Thánh dạy ta “phải tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa, vì cả hai nuôi
dưỡng và chi phối toàn bộ đời sống Kitô hữu” (GLHTCG 141).
3/. H: Hội
Thánh dạy ta phải có thái độ nào đối với Thánh Kinh?
T: Hội
Thánh khuyến khích mọi thành phần Dân Chúa “Hãy chuyên cần học hỏi Thánh Kinh
và kiên trì theo đuổi với tất cả nhiệt tâm hợp với cảm thức của Hội Thánh” (DV
23).
4/. H: Cùng
với Thánh Truyền, Thánh Kinh được Hội Thánh đón nhận như thế nào?
T: Cùng với Thánh
Truyền, Thánh Kinh được Hội Thánh xem như là quy luật tối thượng hướng dẫn đức
tin, được Thiên Chúa linh ứng và đã được ghi chép một lần cho muôn đời” (DV
21).
4. Quyết tâm thực
hành
Các Cộng đoàn và các Giáo xứ tích cực tham gia
các khóa suy niệm, học hỏi, tìm hiểu Thánh Kinh.
Bài 12: LỜI CHÚA TRONG CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY CỦA
NGƯỜI TÍN HỮU
1. Lời Chúa
“Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực
hành, thì ví được như người khôn, xây nhà mình trên đá” (Mt 7,24//Lc 6,47).
2. Giải thích
Cùng với Bí Tích Thánh Thể, Thánh Kinh luôn là
“tâm điểm, đỉnh cao, nguồn mạch” đức tin của đời sống Kitô hữu. Có thể, với
lòng yêu mến chân thành, chúng ta tham dự thánh lễ rất nhiều, với lòng tôn kính
thẳm sâu, chúng ta tôn thờ Phép Thánh Thể, nhưng rất nhiều người, nhiều gia
đình, đã không có một cuốn Thánh Kinh, ít ra là Tân Ước, cho riêng mình, và nếu
có, thì cũng coi Thánh Kinh như bao cuốn sách khác, chưa nhận ra Sách Thánh là
“Lời Chúa”, để biết cung kính đặt Thánh Kinh ở một “nơi xứng hợp” và để cầu
nguyện (x. VD 85).
Xuất phát từ mối ưu tư muốn giúp các tín
hữu biết “đặt Lời Chúa đúng với chỗ đứng thánh thiêng và địa vị cao nhất” trong
đời sống đức tin như Hội Thánh sơ khai vốn có, Hội Thánh đặc biệt nhấn mạnh tầm
quan trọng và địa vị của Thánh Kinh trong các cử hành Phụng vụ, nhất là trong
Thánh lễ (x. SC 51) và trong đời sống của người tín hữu, để giúp họ ý thức
rằng, mỗi khi họ tham dự hoặc cử hành Phụng vụ qua các Bí Tích, hay khi cầu
nguyện với Lời Chúa, họ gặp gỡ chính Chúa, vì Chúa đang nói với họ qua Lời của
Ngài và qua dấu chỉ Bí Tích được cử hành. Và đó là việc thờ phượng Thiên Chúa
đích thực trong tinh thần và chân lý đúng như ý Chúa muốn (x. Ga 4,23).
Bên cạnh đó, Kitô hữu có thể kín múc từ Lời
Chúa ánh sáng chiếu soi cho mọi vấn đề của cuộc sống. Vì vậy việc ham mộ việc
đọc và học hỏi Thánh Kinh là một công việc cần thiết cho đời sống Kitô hữu, để
Lời mặc khải được đón nhận cách xác thực và trọn vẹn, đem lại cho mọi người sức
sống mới. Đức Thánh Cha Bênêđíctô dạy rằng: “Các Kitô hữu, đặc biệt là các Giáo
lý viên, cần phải được học hỏi và đào tạo cách thích hợp... cần chú ý đến việc
“Tông đồ Thánh Kinh”, một phương pháp rất có giá trị như kinh nghiệm của Hội
Thánh đã cho thấy” (VD 75), và ngài nói thêm: “Họ cần được đào tạo để biết biện
phân ý muốn của Thiên Chúa nhờ một cuộc sống thân tình với Lời Thiên Chúa” (VD
84).
Hội Thánh mời gọi con cái mình phát huy việc
cầu nguyện trong gia đình, chăm chú lắng nghe Lời Chúa, học hỏi và hiểu biết
Thánh Kinh, vì đó là nền tảng căn bản giúp các gia đình được bền vững. Để thực
hiện được điều đó, Hội Thánh mong ước mỗi gia đình phải có sách Thánh Kinh, đặt nơi xứng hợp, để đọc và cầu nguyện
(VD 85).
Xác tín rằng Lời Chúa là nền tảng của
mọi linh đạo Kitô giáo, là yếu tố cơ bản cho đời sống thiêng liêng của mọi tín
hữu, Hội Thánh đề cao “Lectio Divina” (“Đọc Thánh Kinh trong tâm thế cầu
nguyện”), thực hiện qua 5 bước chính là Đọc (lectio), Suy (meditatio), Cầu
(oratio), Ngưỡng (contemplatio) và Hành (actio):
- Đọc bản văn Thánh Kinh để biết cách trung thực nội dung Lời
Chúa muốn nói gì.
- Suy niệm để cảm nghiệm điều Lời Chúa nói gì với ta trong
hiện tại.
- Cầu nguyện là đáp lại điều “Chúa nói” với ta
qua bản văn ta vừa đọc; cầu nguyện có thể là khẩn xin, chuyển cầu, tạ ơn, ngợi
khen...
- Chiêm ngưỡng là mở lòng đón nhận cái nhìn của Chúa để phán
đoán các thực tại như một hồng ân Chúa ban và tự hỏi Chúa muốn ta phải hoán cải
tinh thần, con tim và đời sống thế nào.
- Hành động là đem sứ điệp Lời Chúa vào trong cuộc sống, để
Lời Chúa trở nên nguồn sức mạnh thúc đẩy ta sống và dâng hiến đời mình cho Chúa
và tha nhân trong tình bác ái.
3. Bài học
1/. H: Thánh Kinh có địa vị nào trong đời sống người
tín hữu?
T: Cùng
với Bí Tích Thánh Thể, Thánh Kinh là “tâm điểm, đỉnh cao, và nguồn mạch” đức
tin cho đời sống người tín hữu.
2/. H: Nhờ
đâu gia đình Công giáo có được nền tảng căn bản và vững bền?
T: Nhờ
gia đình biết phát huy việc cầu nguyện, chăm chú lắng nghe Lời Chúa, và chuyên
cần học hỏi để hiểu biết Thánh Kinh mỗi ngày một hơn (VD 85).
3/. H: Cha
mẹ có bổn phận nào đối với con cái trong việc giáo dục đức tin?
T: Cha
mẹ có bổn phận thông truyền các giá trị đạo đức của Tin Mừng và lấy gương lành
mà khơi gợi lên cho con cái mình lòng yêu mến đối với Lời Chúa.
4/. H: Ta
phải đọc Thánh Kinh như thế nào?
T: Ta
phải đọc chính bản văn Thánh Kinh, suy niệm, cầu nguyên, chiêm ngưỡng rồi hành
động theo Lời Chúa dạy.
4. Quyết tâm thực
hành
Gia đình Công giáo có một cuốn Thánh Kinh và
đặt trên bàn thờ, và quyết tâm “đọc Lời Chúa trong tâm thế cầu nguyện” trong
các buổi kinh gia đình.
Chủ đề 4:
CỬ HÀNH PHỤNG VỤ
MỘT SỰ BIỂU LỘ ĐỨC TIN SỐNG ĐỘNG
Bài 13: CÁC BÍ TÍCH ĐƯỢC THIẾT LẬP
CHO CON NGƯỜI VÀ VÌ CON NGƯỜI
1. Lời Chúa
“Anh em
hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin
và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ” (Mc 16,15-16a).
2. Giải thích
Các bí
tích là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng, do Chúa Giêsu Kitô thiết lập và ủy
thác cho Hội Thánh, để tiếp tục thông ban cho nhân loại mọi nơi mọi thời ân
sủng và sự sống thần linh. “Nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn đưa Hội Thánh vào ‘sự thật toàn vẹn’ (Ga 16,13), Hội
Thánh dần dần nhận ra kho tàng này mà mình đã lãnh nhận từ Chúa Kitô và xác
định việc ‘ban phát’ kho tàng ấy, cũng như Hội Thánh đã làm với Thư Quy các
Sách Thánh và giáo lý đức tin, với tư cách là người quản lý trung tín các mầu
nhiệm của Thiên Chúa. Vì vậy, theo dòng thời gian, Hội Thánh xác định trong số
các cử hành phụng vụ của mình, có 7 cử hành là những bí tích, theo nghĩa hẹp
của từ này, do Chúa thiết lập” (GLHTCG,
số 1117).
Các bí
tích được cử hành qua các dấu hiệu khả giác, tức là qua các lời đọc và những
nghi thức phụng vụ. Các nghi thức này là cần thiết, vì con người, trong hiện
hữu xác hồn, cần đến những dấu hiệu khả giác để đạt đến nhận thức về những thực
tại thiêng liêng và các mầu nhiệm trong lịch sử cứu độ. “Bảy bí tích liên quan
đến tất cả các giai đoạn và thời điểm quan trọng trong đời sống Kitô hữu: chúng
làm cho đời sống đức tin của các Kitô hữu được sinh ra và lớn lên, được chữa
lành và được trao sứ vụ. Về điều này, có một sự tương tự nào đó giữa những giai
đoạn của đời sống tự nhiên và những giai đoạn của đời sống thiêng liêng”
(GLHTCG, số 1210).
Các bí
tích được Chúa Giêsu Kitô thiết lập cho con người và vì lợi ích ơn cứu độ con
người, cụ thể là như phương thế dẫn đưa con người đi vào tương quan hiệp thông
với Thiên Chúa là nguồn ơn cứu độ, vì “các bí tích có mục đích thánh hóa con
người, xây dựng thân thể Chúa Kitô và sau cùng là thờ phượng Thiên Chúa” (SC
59). Ngoài ra, “là những dấu chỉ, các bí tích còn giữ vai trò giáo huấn nữa”
(SC 59).
Các bí
tích có một mối liên hệ mật thiết với đức tin. Việc lãnh nhận bí tích đòi buộc
phải có đức tin. Đồng thời nhờ ân sủng các bí tích, đức tin được nuôi dưỡng và
củng cố: “Các bí tích không những giả thiết phải có đức tin trước, mà chúng còn
nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin bằng các lời đọc và các nghi thức; bởi
vậy chúng được gọi là các bí tích của đức tin” (GLHTCG, số 1123).
3. Bài học
1/.
H: Bí
tích là gì?
T: Bí tích là những dấu chỉ khả giác và hữu
hiệu của ân sủng, do Chúa Kitô thiết lập và ủy thác cho Hội Thánh cử hành, nhằm
diễn tả và thông ban sự sống thần linh cho chúng ta.
2/. H: Các bí tích có cần thiết cho ơn cứu độ
không?
T: Tất cả các bí tích đều cần thiết cho ơn cứu
độ, mỗi bí tích theo một cách, vì ân sủng bí tích có sức chữa lành và biến đổi
người lãnh nhận.
3/. H: Vì sao các bí tích phát sinh hiệu quả?
T: Các bí tích làm phát sinh hiệu quả, vì khi
được cử hành đúng cách, thì chính Chúa Kitô hiện diện hoạt động trong các bí
tích và thông ban ân sủng mà các bí tích biểu lộ.
4/. H: Người ta phải làm gì để lãnh nhận được ân
sủng bí tích?
T: Để lãnh nhận được ân sủng bí tích, người
lãnh nhận phải có đức tin, có ý hướng ngay lành, hiểu biết về bí tích và có
thái độ sẵn sàng đón nhận.
IV. Quyết tâm thực hành
Năng dâng lên Chúa lời nguyện tạ ơn: “Lạy Chúa, con cảm
tạ Chúa vì Chúa đã lập các bí tích để ban ơn cứu độ cho chúng con.”
Bài 14: CỬ HÀNH PHỤNG VỤ DIỄN TẢ NIỀM TIN SỐNG
ĐỘNG
1. Lời Chúa
“Các tín
hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng
năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42).
2. Giải thích
Việc cử hành phụng vụ là một việc quan trọng và không thể
thiếu trong đời sống của Hội Thánh ngay từ thời các Tông đồ (x. Cv 2). Trong
các cử hành bí tích, cử hành Thánh Thể chiếm giữ vị trí trung tâm, vì Thánh Thể
là “nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo” (LG 11). “Thật vậy,
phép Thánh Thể chí thánh chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Hội Thánh:
đó là chính Chúa Kitô, Người là mầu nhiệm Phục Sinh và Bánh Hằng Sống của chúng
ta. Người ban sự sống cho nhân loại bằng chính Thịt của Người, Thịt đã trở nên
sống động nhờ Thánh Thần và ban sự sống cho con người” (PO 5).
Hành động cứu độ của Thiên Chúa đạt đến sự hoàn tất trong
biến cố Thiên Chúa trao ban Con Một Yêu Dấu và Thánh Thần của Ngài. Chúa Kitô
hoàn tất công trình cứu độ qua cuộc khổ nạn thập giá, sự sống lại và lên trời
vinh hiển, vì nhờ đó, Người đã chết để tiêu diệt sự chết và sống lại để tái lập
sự sống cho nhân loại. Và qua mọi thời đại, trong quyền năng của Chúa Thánh
Thần, cử hành các bí tích, nhất là cử hành thánh lễ, tái hiện công trình cứu độ
của Chúa Kitô, để nhờ đó ơn cứu độ được tiếp tục chuyển ban cho các Kitô hữu là
những người tin. Vì thế, “Phụng vụ được xem là việc thực thi chức vụ tư tế của
chính Chúa Kitô, trong đó công cuộc thánh hóa con người được biểu tượng nhờ
những dấu chỉ khả giác và được thể hiện hữu hiệu cách khác nhau theo từng dấu chỉ,
và trong đó việc phụng tự công cộng vẹn toàn được thực thi nhờ Nhiệm Thể Chúa
Kitô, nghĩa là Đầu và các chi thể Người. Do đó, vì là công việc của Chúa Kitô
tư tế và Thân Thể của Người là Hội Thánh, nên mọi việc cử hành phụng vụ đều là
hành vi chí thánh, và không có một hành vi nào của Hội Thánh có hiệu lực bằng,
xét cả về danh hiệu lẫn đẳng cấp” (SC 7).
Là hành động thánh thiêng và tiêu biểu nhất, cử hành
phụng vụ các bí tích, nhất là thánh lễ, là chóp đỉnh mà mọi hoạt động của Hội
Thánh hướng đến, đồng thời cũng là nguồn mạch phát sinh mọi năng lực hoạt động
của Hội Thánh, bởi vì “nhờ phụng vụ, nhất là trong hy tế Thánh Thể của Chúa,
‘công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện’. Phụng vụ góp phần rất nhiều để
giúp các tín hữu, qua cuộc sống mình, diễn tả và biểu lộ cho người khác mầu
nhiệm Chúa Kitô và bản chất đích thực của Hội Thánh” (SC 2).
Khi quy tụ để cử hành phụng vụ bí tích, cộng đoàn diễn tả
và công bố đức tin sống động của mình vào ơn cứu cứu độ Thiên Chúa thương ban
cho con người. “Khi cử hành các bí tích, Hội Thánh tuyên xưng đức tin đã lãnh
nhận từ các Tông Đồ. Từ đó có câu thành ngữ cổ: ‘Lex orandi, lex credendi’,
nghĩa là ‘Luật cầu nguyện, luật đức tin’ (hay như lời ông Prospêrô Aquitanô vào
thế kỷ thứ 5: ‘Legem credendi lex statuat supplicandi’, nghĩa là ‘Luật của việc
khẩn cầu ấn định luật của đức tin’. Luật của việc cầu nguyện là luật của đức
tin. Hội Thánh tin như Hội Thánh cầu nguyện. Phụng vụ là yếu tố cấu thành của
Truyền thống thánh thiện và sống động” (GLHTCG, 1124).
3. Bài học
1/. H: Phụng
vụ là gì?
T: Phụng vụ là việc cử hành Mầu nhiệm Chúa
Kitô, nhất là cử hành Mầu nhiệm Vượt qua của Người, là hành động chính thức của
Hội Thánh nói lên việc thờ phượng công khai đối với Thiên Chúa.
2/. H: Cử hành phụng vụ có vị trí nào trong đời
sống Hội Thánh?
T: Cử hành phụng vụ các bí tích, nhất là cử
hành thánh lễ, là chóp đỉnh mà mọi hoạt động của Hội Thánh hướng đến, đồng thời
cũng là nguồn mạch phát sinh mọi năng lực hoạt động của Hội Thánh.
3/. H: Đâu là mối liên hệ giữa đức tin và cử hành
phụng vụ các bí tích?
T: Việc lãnh nhận các bí tích đòi buộc phải có
đức tin, đồng thời các bí tích nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin qua các
lời đọc và những nghi thức.
4/. H: Kitô hữu tham dự cử hành phụng vụ như thế
nào?
T: Với tư cách là thành viên của dân tư tế,
mỗi Kitô hữu tham dự vào cử hành phụng vụ của Hội Thánh một cách tích cực và
sinh động tùy theo phận vụ riêng của mình.
4. Quyết tâm thực hành
Tham dự cử hành thánh lễ và các bí tích một cách tích cực
và sinh động bằng việc lắng nghe Lời Chúa, hòa nhịp tâm hồn vào các nghi thức,
các lời nguyện và các bài ca phụng vụ.
Bài 15: THÁNH
HÓA NGÀY CHÚA NHẬT
1. Lời Chúa
“Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh”
(Cv 20,7).
2. Giải thích
Chúa Nhật, ngày thứ nhất trong tuần, có ý nghĩa và tầm
quan trọng đặc biệt đối với Kitô giáo, vì Chúa Giêsu Kitô đã sống lại vào ngày
thứ nhất trong tuần, khởi đầu cho một công cuộc sáng tạo mới. Đây là sự kiện
trung tâm và nền tảng cho toàn bộ đức tin Kitô giáo. Vì thế, ngay từ thời Hội
Thánh sơ khai, Chúa Nhật là ngày các Kitô hữu họp nhau để cử hành Thánh Thể:
“Chúng tôi tụ họp nhau vào ngày Chúa Nhật, bởi vì đó là ngày thứ nhất trong
tuần, ngày mà Thiên Chúa biến đổi bóng tối và vật chất mà tạo dựng vũ trụ, và
vì vào chính ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta,
đã sống lại từ trong kẻ chết” (Justin, Apologie I, 67,7).
Tiếp nối nhận thức truyền thống của Hội Thánh về ý nghĩa
của ngày Chúa Nhật, công đồng Vaticanô II dạy rằng: “Theo tông truyền bắt nguồn
từ chính ngày Chúa Kitô sống lại, Hội Thánh cử hành mầu nhiệm phục sinh vào mỗi
ngày thứ tám, ngày thật đáng gọi là ngày của Chúa hay ngày Chúa Nhật. Thực vậy,
trong ngày đó các Kitô hữu phải họp nhau lại để nghe Lời Chúa và tham dự Lễ Tạ
Ơn, để kính nhớ cuộc Thương khó, sự Sống lại và Vinh quang của Chúa Giêsu, đồng
thời cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã ‘dùng sự Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô từ
trong kẻ chết sống lại mà tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động’ (1 Pr 1,3).
Vì vậy, ngày Chúa Nhật là ngày lễ độc đáo phải được đề cao và in sâu vào lòng
đạo đức của các tín hữu, để ngày ấy trở thành ngày vui mừng và ngày nghỉ việc.
Các cuộc lễ khác, nếu không thật sự là lễ rất quan trọng thì không được lấn át
ngày Chúa Nhật, bởi vì ngày Chúa Nhật là nền tảng và trung tâm của cả năm phụng
vụ” (SC 106).
Việc “Thánh hóa ngày Chúa Nhật”, hay như thường quen gọi
là việc “Giữ ngày Chúa Nhật”, trong đó cử hành thánh lễ là tâm điểm, chính là
lời đáp trả của Hội Thánh đối với hồng ân sáng tạo và cứu độ mà Thiên Chúa thực
hiện liên lỉ cho con người và vũ trụ. Việc chu toàn bổn phận “Thánh hóa ngày
Chúa Nhật” không phải là một gánh nặng phải chu toàn, song là một nhu cầu thiết
yếu của đời sống các Kitô hữu, vì các Kitô hữu không thể sống mà không cử hành
ngày Chúa Nhật.
Bổn phận thánh hóa ngày Chúa Nhật bằng việc tham dự cử
hành thánh lễ vừa là một đòi buộc của đức tin, vừa là một quyền căn bản của
Kitô hữu. Do vậy, mọi Kitô hữu đều được kêu mời thi hành bổn phận thánh hóa
ngày Chúa Nhật trong tâm tình tin yêu và tạ ơn đối với Thiên Chúa, trong ý thức
trách nhiệm đối với đời sống đức tin của cá nhân và của cộng đoàn, đồng thời
trong vai trò đại diện cho tất cả những người vẫn còn xa Chúa và chưa biết Chúa
mà thờ phượng Ngài. “Việc tham dự cuộc cử hành chung bí tích Thánh Thể ngày Chúa
Nhật là bằng chứng sự liên kết và trung thành với Chúa Kitô và với Hội Thánh
của Người. Như vậy các tín hữu chứng tỏ sự hiệp thông của mình trong đức tin và
đức mến. Họ cùng nhau làm chứng cho sự thánh thiện của Thiên Chúa và cho niềm
hy vọng của mình vào ơn cứu độ. Họ làm cho nhau nên vững mạnh dưới sự hướng dẫn
của Chúa Thánh Thần” (GLHTCG, số 2182).
3. Bài học
1/. H: Đâu là điều chính yếu nhất của việc thánh
hóa ngày Chúa Nhật?
T: Là tham dự cử hành thánh lễ, vì đó là việc
thờ phượng Thiên Chúa cần được ưu tiên nhất.
2/. H: Vì sao tham dự thánh lễ ngày Chúa Nhật là
công việc ưu tiên của Kitô hữu?
T: Vì khi cùng với cộng đoàn tham dự cử hành
thánh lễ, Kitô hữu thực thi việc thờ phượng Thiên Chúa, chăm sóc và nuôi dưỡng
đức tin, đồng thời biểu lộ tư cách Kitô hữu của mình.
3/. H: Ngoài việc tham dự cử hành thánh lễ, Kitô
hữu nên làm gì để thánh hóa ngày Chúa Nhật?
T: Ngoài việc tham dự thánh lễ, ngày Chúa Nhật
phải là ngày dành riêng để làm việc lành và khiêm tốn phục vụ mọi người trong
đức ái.
4/. H: Phải nghĩ thế nào về luật “Giữ ngày Chúa
Nhật”?
T: Kitô hữu không nên xem việc “Giữ ngày Chúa
Nhật” là một luật buộc phải giữ như một gánh nặng, nhưng là một nhu cầu thiết
yếu của đời sống Kitô hữu, vì đó là một phần không thể thiếu trong đời sống đức
tin của Kitô hữu, để nghỉ ngơi theo như ý Chúa và thánh hóa thời giờ Chúa ban.
IV. Quyết tâm thực hành
Tham dự thường xuyên thánh lễ Chúa
Nhật và các ngày lễ buộc, đồng thời tránh tất cả những điều gây cản trở việc
chu toàn bổn phận thánh hóa ngày Chúa Nhật.
Bài 16: CẦU NGUYỆN, BẰNG CHỨNG CỦA MỘT ĐỨC TIN SỐNG
ĐỘNG
1. Lời Chúa
“Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần
Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ‘Abba, Cha ơi!’” (Gl
4,6).
2. Giải thích
Chúa Giêsu dạy các môn đệ
cầu nguyện. Tân
ước cho thấy Chúa Giêsu là con người của cầu nguyện, và cuộc
sống của Người là mẫu gương của đời sống cầu nguyện. Thánh sử Máccô mô tả một ngày sống
của Chúa Giêsu ở Caphanaum bắt đầu với việc từ “sáng sớm, lúc trời còn tối mịt,
Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc 1,35); và sau
khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, “Người lên núi cầu nguyện”
(Mc 6,46). Đọc Tân ước,
chúng ta thấy tất cả hoạt động của Chúa Giêsu
đều phát xuất từ việc Người hiệp thông với Thiên Chúa Cha trong lời cầu nguyện;
và những biến cố quan trọng trong cuộc đời của Đấng Cứu Độ được mặc khải rõ
ràng và được trình bày như những biến cố liên kết với việc cầu nguyện.
Trong đời
sống của Kitô hữu, cầu nguyện và đức tin liên kết mật thiết với nhau. Nếu đức
tin không chỉ là việc lý trí đón nhận những điều Chúa dạy, nhưng còn là hành vi
của ý chí muốn sống theo ý Chúa, gắn bó với Chúa và phó thác cuộc sống cho
Ngài, thì cầu nguyện chính là bằng chứng rõ rệt cho một đức tin sống động của
Kitô hữu. Cầu nguyện đưa dẫn Kitô hữu vào sự hiệp thông với Thiên Chúa, trong
đó sự thấp hèn và yếu đuối của thân phận thụ tạo sẽ được lấp đầy bởi sự cao
sang và mạnh mẽ của Đấng Sáng tạo: “Trong Giao Ước mới, cầu nguyện là mối tương
quan sống động của con cái Thiên Chúa với Cha vô cùng nhân hậu của mình, với
Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô và với Chúa Thánh Thần. Ân sủng của Nước Trời
là ‘sự kết hợp của toàn thể Ba Ngôi Chí Thánh... với toàn thể tâm trí con
người’. Như vậy, sống cầu nguyện là luôn sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa
Chí Thánh và trong sự hiệp thông với Ngài. Việc hiệp thông sự sống này lúc nào
cũng có thể thực hiện được, vì nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta đã nên một với
Chúa Kitô. Sự cầu nguyện mang đặc tính Kitô giáo khi đó là sự hiệp thông với Chúa
Kitô và được triển nở trong Hội Thánh là Thân Thể Người. Các chiều kích của cầu
nguyện cũng chính là những chiều kích của tình yêu Chúa Kitô” (GLHTCG, số
2565).
Trước khi trở thành một lời nói, một tư tưởng được xếp đặt
thứ tự hẳn hoi, thì cầu nguyện bắt nguồn từ đức tin và lòng phó thác đặt vào
Thiên Chúa. Như vậy, một đức tin cụ thể và sống động là nền tảng không thể
thiếu của mọi hình thức cầu nguyện. Cầu nguyện là tôn thờ Thiên Chúa: là chúc
tụng và thờ lạy, xin ơn và chuyển cầu, tạ ơn và ca ngợi. Chúng ta cầu nguyện
cùng Thiên Chúa, vì chúng ta xác tín rằng Ngài là Thiên Chúa của chúng ta và
mọi sự đều phát xuất từ Ngài và phụ thuộc vào Ngài. Khi cầu nguyện, chúng ta
đặt mình trong ánh sáng của Thiên Chúa để nhận ra mình là ai, ơn gọi và sứ mạng
của mình là gì, và để nhận biết sự thánh thiện, sự cao cả, tình yêu và ý muốn
tràn đầy yêu thương vô biên của Ngài dành cho chúng ta.
Theo
Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, khi “Chúa nói: ‘Hãy cầu nguyện luôn’, thì theo lẽ tự nhiên, Ngài không đòi chúng ta phải đọc kinh liên tục, nhưng chính là đừng bao
giờ đánh mất mối dây liên lạc nội tâm với Thiên Chúa. Thực thi mối liên hệ này
chính là ý nghĩa việc cầu nguyện của chúng ta. Do đó, cần phải bắt đầu và kết
thúc ngày sống của mình bằng việc cầu nguyện. Chúng ta hãy nghe Chúa nói qua
việc đọc Kinh Thánh. Chúng ta hãy nói với Chúa những ước ao và mong đợi, mọi niềm vui nỗi buồn, những sai lầm và dâng lời tạ
ơn vì mọi điều tốt lành, như thế chúng ta luôn luôn đặt Chúa trước mặt, làm
đích quy chiếu cho đời mình. Vậy chúng ta hãy xét mình về những sai lỗi và học
cách làm việc để nên tốt hơn, đồng thời cũng trở nên nhạy cảm với mọi cái thiện
và từng cái đẹp vẫn diễn ra mỗi ngày và do đó càng thêm lòng biết ơn. Và với
lòng biết ơn, niềm vui được thêm lên vì biết Thiên Chúa ở gần chúng ta và chúng
ta có thể phục vụ Ngài… Qua lòng đạo đức ấy, đức tin đi vào tâm hồn con người, trở thành một phần
của những xúc cảm, thói quen, cách cảm nhận và phong cách sống của họ…, và lòng
đạo đức ấy làm cho chúng ta trở thành ‘Dân Chúa’ một cách rất thực tế” (ĐTC Bênêđíctô XVI, Thư gửi các
chủng sinh, 28.10.2010).
3. Bài học
1/. H: Tại
sao mọi người đều được kêu mời thực hành cầu nguyện?
T: Vì
cầu nguyện là sự diễn tả cách sống động đức tin và nói lên mối liên hệ cá nhân
với Thiên Chúa Ba Ngôi.
2/. H: Đâu
là các hình thức chính yếu của kinh nguyện Kitô giáo?
T: Đó là chúc tụng và thờ lạy, xin ơn và
chuyển cầu, tạ ơn và ca ngợi. Tất cả các hình thức cầu nguyện này được diễn tả
một cách sống động nhất trong cử hành thánh lễ.
3/. H: Đâu là thời gian Kitô hữu ưu tiên cho việc
cầu nguyện hằng ngày?
T: Mọi thời điểm trong ngày điều thích hợp cho việc cầu nguyện, nhất là
kinh sáng và kinh tối, thánh lễ và kinh mân côi, trước và sau khi dùng cơm.
4/. H: Cầu nguyện trong gia đình có vai trò gì
trong đời sống Kitô hữu?
T: Gia đình Kitô hữu là nơi đầu tiên dạy chúng ta cầu nguyện. Vì thế, hằng
ngày chúng ta nên cầu nguyện chung với nhau trong gia đình, vì đó là bằng chứng
đầu tiên của đời sống cầu nguyện trong Hội Thánh.
IV. Quyết tâm thực hành
Tích cực tham dự các buổi cầu nguyện
của cộng đoàn và các giờ kinh trong gia đình.
Chủ đề 5:
SỐNG ĐỨC TIN
TRONG MÔI TRƯỜNG THẾ TỤC HÓA
Bài 17:
PHONG
TRÀO THẾ TỤC HÓA VÀ NHỮNG NGUY HẠI CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỨC TIN
1. Lời Chúa
"Nếu thế gian ghét anh em,
anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian,
thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế
gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh
em" (Ga 15,18-20).
2. Giải
thích
Phong trào thế tục hoá (sécularisation hay laicisation) diễn
ra vào khoảng thế kỷ XIX cho tới đầu thế kỷ XX tại các nước Âu Châu Kitô giáo.
Phong trào thế tục hoá được định nghĩa như là hiện tượng của xã hội đời ngày
càng thoát khỏi dấu ấn của các cơ cấu và biểu tượng tôn giáo, khiến Đức
tin Kitô giáo cũng ngày càng mất đi ý
nghĩa trong xã hội và trong đời sống cá nhân.
Từ nội dung là sự tách rời
quyền đời khỏi quyền đạo, phong trào thế tục hoá ngày nay đang lan rộng trong
mọi tầng lớp xã hội, ngay cả trong giới công giáo, như là hiện tượng chung
của tất cả những gì loại bỏ tôn giáo, loại bỏ thế giới thần thiêng, mầu nhiệm
ra khỏi đời sống cá nhân, gia đình và xã hội, và đề cao những gì do con người
hoặc do lý trí, khoa học, kỹ thuật của con người tạo ra. Do đó, đức tin
không tránh khỏi ảnh hưởng của nó.
Trong xã hội bị ảnh hưởng mạnh
của thế tục hoá, những gì là thiêng thánh không còn được tin cách dễ dàng . Sự
sa sút niềm tin vào Thiên Chúa và các mầu nhiệm ngày càng nặng nề, nhất là khi
đời sống đạo còn non nớt do thiếu hiểu biết giáo lý và đời sống nội tâm cầu
nguyện chưa hình thành hoặc chỉ ở mức độ hời hợt bên ngoài.
Đồng thời, một khi niềm tin vào
những gì là thiêng thánh càng suy giảm thì những gì thuộc trần tục, có thể đụng
chạm, nhìn thấy được lại càng được coi trọng. Bởi vậy, nơi một số tín hữu,
những tiêu chí lựa chọn, đánh giá thường mang tính thực dụng, nghĩa là có tính
cách vật chất, trần tục. Từ những lựa chọn theo thế tục hoá, Đức tin sẽ dần dần yếu kém và dần dà chỉ còn là một
Đức tin "không có việc làm là một
Đức tin chết" (Gc 2,17).
Từ đó, các Kitô hữu dễ dàng rơi
vào tình trạng sống chung với sự dữ, với tội lỗi. Một số ngày càng sa sút
về ý thức đạo đức, chỉ sống trong hận thù, ghen ghét, chém giết và khủng
bố, hoặc rơi vào tinh trạng nghiện ngập ma tuý, nhiễm HIV vì không tìm thấy ý
nghĩa của cuộc sống, chán chường với hiện tại, với gia đình, xã hội. Một số
khác ra sức chạy đua với tiền tài, địa vị, kiến thức, danh vọng xã hội để lấp
đầy cuộc sống của mình. Vật chất đối với họ là trên hết, nên hậu quả là họ bỏ
bê, chểnh mảng bổn phận chăm lo đời sống thiêng liêng, một điều rất cần thiết
cho đời sống tâm linh của người mang danh Kitô hữu.
Hậu quả là mọi giá trị đạo đức
và luân lý bị đảo lộn: thay vì xem quan
hệ nam nữ là ân huệ Thiên Chúa ban để trao hiến và nên một với nhau, nhờ đó mà
yêu thương nhau và sinh sản con cái, thì họ chỉ coi đó như một lạc thú, chỉ tìm
hưởng thụ để thỏa mãn chính mình. Người ta cũng không coi gia đình là thiêng
liêng nữa, nên thích nhau thì ở, không thích thì bỏ đi, mặc con cái ra sao thì
ra. Không những thế, không mấy cha mẹ còn muốn mang gánh nặng nuôi con, nên
hoặc triệt sản, ngừa thai, hay trót mang thai rồi thì phá bỏ một cách không
thương tiếc.
Trước những thách đố và nguy
hại do chủ nghĩa thế tục hóa gây nên, người Kitô hữu phải sống như thế nào để
có thể thực thi lời Thánh Phaolô căn dặn các tín hữu ở Philipphê: “Anh em
sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa giữa một thế hệ gian tà, sa
đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên
vòm trời, là làm sáng tỏ Lời ban sự sống” (Pl 2,15-16).
3. Bài học
3. Bài học
1/. H: Phong
trào thế tục hóa là gì?
T: Đó là hiện tượng xã hội đời ngày càng thoát khỏi dấu ấn của các
cơ cấu và biểu tượng tôn giáo, khiến Đức tin
Kitô giáo cũng ngày càng mất đi ý nghĩa trong đời sống xã hội và cá nhân.
2/. H: Phong trào thế tục hóa ngày nay đang lan rộng
trong mọi tầng lớp xã hội theo chiều kích nào?
T: Phong trào thế tục hoá ngày nay đang lan
rộng trong mọi tầng lớp xã hội, ngay cả trong giới Công giáo, như là hiện tượng chung
muốn loại bỏ tôn giáo, loại bỏ thế giới thần thiêng, mầu nhiệm ra khỏi đời sống
cá nhân, gia đình và xã hội, và đề cao những gì do lý trí, khoa học, kỹ thuật
của con người tạo ra.
3/. H: Phong trào thế tục hóa gây nguy hại gì cho
Đức tin Kitô giáo?
T: Phong trào thế tục hoá gây ra các nguy hại
này:
- một là người ta ngày càng không tin vào Thiên
Chúa và vào các mầu nhiệm thiêng thánh nữa.
- hai là con người ngày một mất dần ý thức đạo
đức, chỉ sống trong hận thù, ghen ghét, chém giết và khủng bố... Vì vậy,
người ta mặc sức chung sống với sự dữ, sự tội trong đời sống cá nhân hay trong cộng đồng xã
hội.
- ba là mọi giá trị đạo đức và luân lý bị đảo
lộn, từ đó, những gì là sự thật siêu nhiên, sự thật cứu độ, sự thật về Thiên
Chúa, về đời sau bị lu mờ và coi thường.
4. Quyết
tâm thực hành
Trong xã hội sa đọa vì gương
xấu đầy dẫy, chúng ta quyết tâm sống niềm tin vào Thiên Chúa, thực thi công
bình bác ái, và tuân phục mọi giáo huấn của Hội thánh.
Bài 18: SỐNG
ĐỨC TIN
TRONG MÔI TRƯỜNG THẾ TỤC HÓA
1. Lời
Chúa
"Thưa anh em, vì Thiên
Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của
lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để
anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến
con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên
Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo" (Rm 12,1-2).
2. Giải
thích
Phong trào thế tục hóa và những
hệ lụy của nó tác động nặng nề trên Đức tin, làm cho Đức tin bị suy giảm và
lung lạc, đi đến chỗ chết dần chết mòn.
Đối
diện với nền văn hoá tiêu thụ, ích kỷ, bạo động và chết chóc như thế, Hội thánh đã kêu gọi xây dựng một “nền văn minh
tình thương”. Giáo huấn xã hội của Hội Thánh đề nghị lấy tình thương làm nguyên
tắc, làm tiêu chuẩn và định hướng cho xã hội mới. Tình thương
này có thể gọi là “bác ái Kitô giáo cho xã hội” và phải bao trùm toàn thể
nhân loại. Chính “tình yêu hướng tới xã hội” này là phản đề đối với ích kỷ chủ nghĩa và cá nhân chủ nghĩa. Hiện nay, khá phổ biến tình trạng người trẻ ngại dấn thân cho những việc công ích xã hội. Lối sống ích kỷ, khép
kín, chính là điều cản trở việc sống Đức tin, đồng thời, vì thiếu tinh thần trách nhiệm đối với môi trường cuộc
sống mà những tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng.
Nói
cách khác, "nền văn minh tình thương" tập trung vào các giá trị xã
hội Công giáo, những gì giúp chúng ta yêu thương người lân cận của mình. Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi để dấn thân trong xã hội trần thế,
làm thay đổi xã
hội bằng cách nâng cao phẩm giá đời sống gia đình và chu toàn
bổn phận làm người và làm con Chúa. Chúng ta được mời gọi để làm
chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa, vào Hội
thánh, vào các lề luật luân lý Kitô giáo, và quyết tâm xa tránh mọi hình thái
của “văn hóa sự chết” đang đầu độc Đức tin. Đồng thời, mỗi thời điểm là một cơ hội, là dịp để
thông truyền tình thương, thông truyền và cổ vũ
các giá trị đạo đức có sức cứu rỗi như công bình, bác ái, trong sạch, chính
trực...
Thế gian càng sa đọa và sa sút
về luân lý đạo đức thì người có niềm tin vào Thiên Chúa càng phải sống đức
tin ấy cách cụ thể và sống động, không chỉ để phân biệt mình với kẻ không
có đức tin, mà còn để lôi kéo những ai đang mê lầm ra khỏi nanh vuốt của sự dữ,
sự tội nhờ gương sống chứng tá của mình. Đó là thách đố cho chúng
ta trước những nguy cơ đe dọa Đức tin rất nghiêm trọng của thời đại thế
tục hóa và tôn thờ vật chất ngày nay.
3. Bài
học
1/. H: Trước những nguy hại do phong trào thế tục
hóa tác động trên Đức tin, chúng ta phải có thái độ nào?
T: Là người Kitô hữu sống trong môi trường thế
tục hóa, với những áp lực của sự dữ tràn lan trong xã hội, chúng ta phải giữ
vững Đức tin không bị lung lay chao đảo, và còn phải nêu gương sáng để lôi kéo
và nâng dậy những ai đã và đang sa xuống vực thẳm của nền "văn hóa sự
chết".
2/. H: Đối diện với nền văn hoá tiêu thụ, ích kỷ, bạo động và
chết chóc như thế, Hội Thánh Công giáo chủ
trương như thế nào?
T: Hội
Thánh đã kêu gọi
xây dựng một “nền văn minh tình thương", lấy tình thương làm nguyên
tắc, tiêu chuẩn và định hướng cho xã hội mới.
3/. H: Chúng ta phải sống Đức tin trong môi trường thế tục hóa như thế nào?
T: Chúng ta được mời gọi để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa, bằng đời sống chuyên chăm cầu nguyện, đào sâu Lời Chúa, tôn sùng Bí tích Thánh
Thể, đặc biệt tham dự Thánh lễ, đồng thời quyết tâm xa tránh mọi tội
lỗi, xa tránh mọi hình thái của nền “văn hóa sự chết” đang lôi cuốn con người ở
khắp nơi vào hố hư mất đời đời.
4. Quyết
tâm thực hành
Để củng cố Đức tin trước sự lan
tràn của xu hướng thế tục, chúng ta cố gắng học hỏi trau dồi giáo lý, Kinh
Thánh, và siêng năng cầu nguyện, nhất là đến với bí tích Thánh Thể và bí tích
Giải Tội, để có thể gặp gỡ được Đấng mà chúng ta tôn thờ và hết lòng yêu mến.
Chủ đề
6:
SỐNG ĐỨC TIN
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA
Bài 19:
BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỨC
TIN
1. Lời
Chúa
"Con đã truyền lại cho họ
lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như
con đây không thuộc về thế gian. Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng
xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây
không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự
thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian"
(Ga 17,14-18).
2. Giải
thích
Ngày nay, Hội Thánh đang phải
đối diện với xu hướng toàn cầu hoá đang gắng sức biến thế giới thành một
"Thế giới phẳng", nghĩa là một thế giới không còn ngăn cách về không
gian và không có bất cứ một rào cản nào. Toàn cầu hoá đã manh nha từ thế kỷ 15,
và ngày nay đã phát triển đến mức người ta gọi là thời của hậu hiện đại.
Hội Thánh nhận định: "Toàn cầu hoá làm nảy sinh nhiều hy vọng mới,
nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề phiền phức. Toàn cầu hoá có thể tạo ra
những kết quả khả dĩ mang lại lợi ích cho toàn thể nhân loại"
(HĐGMVN, "Tóm lược Học thuyết xã hội của Giáo Hội", NXB Tôn giáo
2007, số 362, tr. 255). Mặc dầu chưa có sự đồng thuận về ý nghĩa và giá
trị của toàn cầu hóa,
không ai có thể phủ nhận sự hiện hữu và tầm quan trọng của nó.
Về
mặt tích cực và thuận lợi, toàn cầu hóa tạo điều kiện để
khám phá những điều mới mẻ, giúp tiếp cận với những tư tưởng cũng như những phương cách và kỹ năng hành động đem
lại nhiều công ích, thiện hảo. Đặc biệt, với các phương tiện truyền
thông hiện đại, tin
tức và hình ảnh khắp thế giới loan đi thật xa, nối kết mọi
người cách nhanh
chóng, giúp đối
thoại trực tiếp, công khai bình đẳng và giao thoa nghĩa vụ cũng như quyền lợi giữa các quốc gia, các nhóm xã
hội, hay cả với các gia đình và mỗi người... cho dù ở bất cứ góc
bể chân trời nào.
Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, toàn cầu
hóa đang đưa đến những mặt tiêu cực, những luồng gió độc, ảnh hưởng đến đời
sống tinh thần và Đức tin của người tín hữu. Thật vậy, do ảnh hưởng của các
“căn bệnh chủ nghĩa”: chủ nghĩa tự do (thích làm gì thì làm), chủ nghĩa cá nhân
(chỉ biết sống cho mình mà không cần quan tâm đến những người khác), chủ nghĩa
hưởng thụ (thích tiêu xài, hưởng lạc thú, thỏa mãn bản thân, tận hưởng sung
sướng), chủ nghĩa duy lợi (dành phần tốt cho mình, đánh giá cuộc sống theo
những món lợi), chủ nghĩa tương đối (tất cả chỉ là tương đối, kể cả Thiên Chúa
và các giá trị cao cả như tình yêu, lòng vị tha...). Tất cả đang làm cho đời
sống Đức tin của nhiều Kitô hữu suy
yếu.
Ngoài ra, ngày nay, do ảnh hưởng
văn hóa Phương Tây tràn vào, lại được các công nghệ thông tin hiện đại truyền
bá lối sống sùng bái cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi xa hoa, lãng
phí, sống truỵ lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực... nên nhiều người Công Giáo đang xa rời những giáo huấn căn bản
của Hội Thánh về Đức tin và luân lý, xa rời những giá trị nền tảng của Tin
Mừng... Chính tình trạng trên đã đưa con người vào con đường tội lỗi, lún sâu vào vũng
lầy của các đam mê cám dỗ.
Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II cảnh báo: "Trong một xã hội với một nền kỹ thuật tân tiến,
các phương tiện truyền thông xã hội và toàn cầu hóa, mọi sự đều trở nên hối hả,
và sự cách biệt văn hóa giữa các thế hệ đang gia tăng, càng ngày càng lớn hơn.
Những thông tin khác biệt nhất và những kinh nghiệm không thể đoán trước được,
đang nhanh chóng xâm nhập vào đời sống của các trẻ nhỏ và thanh thiếu niên, và
các bậc cha mẹ có thể rất lo âu về những mối nguy hiểm mà con cái họ phải đương
đầu. Đôi khi, các bậc cha mẹ rơi vào thất vọng não nề khi con cái thất bại
trong việc chống trả lại những quyến rũ của nền văn hóa ma túy, sự lôi cuốn của
chủ nghĩa khoái lạc vô độ, cám dỗ giải quyết bằng bạo lực, và những biểu lộ
muôn mặt của vô nghĩa và thất vọng” (Tông thư Kinh Mân Côi Đức Trinh
Nữ Maria, ngày 16/10/2002, số 42).
3. Bài
học
1/. H: Phải
hiểu toàn cầu hóa như thế nào?
T: Toàn cầu hóa tạo điều kiện để
khám phá những điều mới mẻ, giúp tiếp cận với những tư tưởng cũng như những phương cách kỹ năng hành động đem lại
nhiều công ích, thiện hảo. Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng đã và đang làm lu mờ không chỉ
đời sống Đức tin, mà
ngay cả những giá trị đạo đức căn bản của con người.
2/. H: Hội Thánh nhận định
thế nào về toàn cầu hóa?
T: Hội
Thánh nhận định về toàn cầu hoá như sau: "Toàn cầu hoá làm nảy sinh nhiều hy vọng mới, nhưng đồng thời cũng đặt
ra nhiều vấn đề phiền phức. Toàn cầu hoá có thể tạo ra những kết quả khả dĩ
mang lại lợi ích cho toàn thể nhân loại"
3/. H: Xu hướng toàn cầu hóa
tác hại thế nào trên Đức tin của các Kitô hữu?
T: Xu
hướng toàn cầu hóa khiến con người xa rời những chuẩn mực đạo đức truyền thống, coi
thường hoặc phủ nhận các giá trị cao cả của Tin
Mừng, đặc biệt làm cho con người chạy
theo các trào lưu duy vật và tôn thờ tiền bạc, sống thực dụng và hưởng thụ, nên ngày càng thờ ơ với đời sống
Đức tin, đời sống cầu nguyện, không tin vào Thiên Chúa nữa.
4. Quyết
tâm thực hành
Học hỏi và đào sâu Giáo Lý Hội
thánh Công giáo.
Bài 20: SỐNG
ĐỨC TIN
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA
1. Lời
Chúa
"Anh em biết chúng ta đang
sống trong thời nào. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm
lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người
đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng
không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng
chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng" (Rm 13,11-14).
2. Giải
thích
Đức tin trước hết là một ơn
ban của Thiên Chúa. Nhưng để Đức tin được triển nở và vững mạnh cần có sự đáp
trả của con người, nghĩa là về phía con người đi tìm chân lý, còn về phía Thiên
Chúa đã, đang và luôn ban ánh sáng đặc biệt để dẫn dắt con người. Ánh sáng soi
đường là Đức Giêsu Kitô. Vì thế, trong thực tại của toàn cầu hóa hôm nay, hơn bao giờ hết, Đức tin
có một tầm quan trọng hết sức cơ bản đối với Kitô hữu chúng ta.
Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nhấn mạnh: "Nền tảng Đức tin Kitô giáo là “gặp gỡ một sự kiện,
gặp gỡ một Người, Đấng mở ra một chân trời mới cho cuộc sống và qua đó đưa ra
định hướng dứt khoát cho mình" (Thông điệp Deus caritas
est, 25-12-2005, số 1).
Vậy đâu là điểm quy chiếu để chúng ta sống xứng đáng
với tư cách là con cái
Thiên Chúa
trong thời đại này, một thời đại đòi hỏi chúng ta làm chứng nhân
đích thực cho Đức
tin Kitô giáo?
Đức Thánh
Cha Bênêđitô XVI đề ra cho chúng ta một định hướng sống Đức tin khi ngài nói
trong Sứ điệp cho ngày Thế giới Di dân và Di cư năm 2012: "Thật thế, ngày nay chúng ta càng cảm thấy nhu cầu cấp bách
phải tạo một sức bật mới, một phong cách mới để tiếp cận việc rao giảng Tin
Mừng trong một thế giới mà các biên giới đang dần bị xóa bỏ, và tiến trình toàn
cầu hóa đang làm cho các cá nhân và dân tộc ngày càng gần gũi nhau hơn."
Tuy nhiên, muốn làm chứng tá
cho Tin Mừng trong bối cảnh xã hội hôm nay, Chân phước Gioan Phaolô II mời gọi
chúng ta “hãy dùng Lời mà nuôi dưỡng mình để trở nên tôi tớ của Lời trong công
tác rao giảng Tin Mừng… trong một tình thế ngày càng phân hóa và đòi hỏi hơn…
lồng trong bối cảnh toàn cầu hóa với hệ quả là các dân tộc và văn hóa hòa trộn
với nhau, một điều vừa mới mẻ lại vừa bấp bênh” (Novo Millennio Ineunte, 40).
Như thế, khi xác tín rằng “Lời
Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118, 105),
chúng ta cần ý thức hơn về tầm quan trọng của Lời Chúa trong cuộc đời mình. Một
cách cụ thể, chính việc đọc kinh chung (thường giờ kinh tối) là thời gian phù
hợp để mọi người trong gia đình qui tụ lại lắng nghe Lời Chúa, như lời dạy của
Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 2000: “Bậc cha mẹ phải cố gắng biến những giây phút
cả gia đình qui tụ bên nhau thành cơ hội để cầu nguyện, đọc và suy niệm Sách
Thánh”.
Thứ đến, việc chuyên cần đến
với bí tích Thánh Thể và bí tích Giải Tội giúp chúng ta gặp gỡ được Đấng mà
chúng ta tôn thờ và hết lòng yêu mến. Bên cạnh đó, việc noi gương các Thánh là
những người đã đổ ra đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ Đức tin của mình cũng sẽ
giúp chúng ta dễ dàng và can đảm làm chứng nhân cho Đức tin vào Thiên Chúa tình
yêu của chúng ta.
Như vậy, sống Đức tin trong bối
cảnh toàn cầu hóa không chỉ là cố gắng học hỏi trau dồi kiến thức giáo lý, Kinh
Thánh, mà còn phải sống Đức tin một cách sung mãn, như Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI trong sứ điệp gửỉ
Đại Hội giới trẻ 2011 tại Madrid nhắn nhủ:“Bao nhiêu Kitô hữu đã và đang sống chứng tá về
sức mạnh của Đức tin được biểu lộ qua
đức ái. Họ là những người kiến tạo hòa bình, thăng tiến công lý, xây dựng một
thế giới nhân bản hơn, một thế giới theo kế hoạch của Thiên Chúa. Họ dấn thân
trong nhiều lãnh vực của đời sống xã hội, với khả năng chuyên nghiệp, góp phần
hữu hiệu vào hạnh phúc của mọi người. ... Trong thời đại toàn cầu hóa
của chúng ta, các bạn hãy trở thành chứng nhân của niềm hy vọng Kitô giáo trên
khắp thế giới. Biết bao người mong ước đón nhận niềm hy vọng này!”. Đó là cách sống và thể hiện Đức tin cho thế giới hôm nay.
3. Bài
học
1/. H: Trong bối cảnh toàn cầu hóa hôm nay, tại sao
Đức tin lại quan trọng cho người Kitô hữu?
T: Trong bối cảnh toàn cầu hóa hôm nay, chỉ có
Đức tin mới dẫn đưa chúng ta đến gặp gỡ một Người, một Đấng mở ra một chân trời
mới cho cuộc sống và qua đó đưa ra định hướng dứt khoát cho mọi hành vi, cử
chỉ, thái độ của mình.
2/. H: Người Kitô hữu cần phải làm gì để Đức tin
ngày càng lớn mạnh?
T: Để Đức tin lớn mạnh giữa những thách đố của
thời đại toàn cầu hóa, người Kitô hữu cần say mê học hỏi và yêu mến Lời Chúa,
qua các buổi kinh tối gia đình, đồng thời siêng năng tham dự Thánh lễ, yêu mến
bí tích Thánh Thể và bí tích Giải Tội, cũng như hết lòng thực thi luật bác ái
yêu người.
3/. H: Kitô hữu còn phải làm gì để sống Đức tin giữa
thời đại này?
T: Người Kitô hữu cần nung nấu trong lòng quyết
tâm rao giảng Đức Kitô, Đấng cứu độ duy nhất của thế giới, biết loan Tin Mừng
làm chứng cho Chúa Phục sinh một cách đáng tin trong môi trường mình sống, biết
dùng lời nói và hành động làm chứng nhân cho niềm hy vọng Kitô giáo trên khắp
hoàn cầu.
4. Quyết
tâm thực hành
Trong bối cảnh toàn cầu hóa
đang làm cho các cá nhân và dân tộc ngày càng gần gũi nhau hơn, chúng ta cần
mạnh dạn loan báo Tin Mừng ở bất cứ mọi nơi, bằng lời nói, và nhất là bằng
những việc bác ái yêu thương.
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
TRONG TẬP SÁCH
DV: Dei Verbum - Hiến chế tín lý về mặc khải của Thiên
Chúa.
FD: Fidei Depositum - Tông hiến “Kho tàng đức tin”.
GLHTCG: Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo.
PF: Porta fidei - Tự sắc “Cánh cửa
đức tin”.
LG: Lumen Gentium - Hiến chế tín lý
về Giáo Hội.
SC: Sacrosanctum Concilium - Hiến chế về Phụng vụ thánh.
VD: Verbum Domini - Tông huấn “Lời Thiên Chúa”.
.............................................................................................................................
75 CÂU TRẮC NGHIỆM HỌC HỎI TÔNG THƯ TỰ SẮC
"PORTA FIDEI"
01. Năm
Đức Tin lần thứ I diễn ra dưới triều đại Đức Giáo Hoàng nào?
a. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.
b. Đức Giáo Hoàng Piô XII.
c. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
d. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.
02. Năm Đức Tin lần thứ I diễn ra vào năm nào?
a. Năm 1960 b. Năm 1962
c. Năm 1967 d. Năm 1972
03. Năm Đức Tin lần thứ I kỷ niệm sự kiện gì?
a. Kỷ niệm 1950 năm Chúa Giêsu chết để cứu chuộc con
người.
b. Kỷ niệm 1900 năm thánh Phaolô trở lại.
c. Kỷ niệm 1900 năm tử đạo của 2 thánh Phêrô và
Phaolô tông đồ.
d. Kỷ niệm Ngày kết thúc Công Đồng Vaticanô II.
04. Năm Đức Tin lần thứ II diễn ra dưới triều đại Đức Giáo
Hoàng nào?
a. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.
b. Đức Giáo Hoàng Piô XII.
c. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
d. Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI.
a. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.
b. Đức Giáo Hoàng Piô XII.
c. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
d. Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI.
05. Năm Đức Tin lần thứ II kỷ niệm sự kiện gì?
a. Kỷ niệm ngày thành lập Hàng giáo Phẩm ViệtNam .
b. Kỷ niệm 50 năm khai mạc
Công Đồng chung Vatican II.
c. Kỷ niệm 20 Năm ban hành Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo.
d. Chỉ có b và c đúng.
a. Kỷ niệm ngày thành lập Hàng giáo Phẩm Việt
b. Kỷ niệm 50 năm khai mạc
Công Đồng chung Vatican II.
c. Kỷ niệm 20 Năm ban hành Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo.
d. Chỉ có b và c đúng.
06. Năm Đức Tin sẽ kết thúc vào ngày lễ gì?
a. Lễ Các Thánh Nam Nữ năm 2013.
b. Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ năm 2013.
d. Lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 2013.
d. Lễ Giáng Sinh năm 2013.
a. Lễ Các Thánh Nam Nữ năm 2013.
b. Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ năm 2013.
d. Lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 2013.
d. Lễ Giáng Sinh năm 2013.
07. Công đồng Vatican II được Đức Giáo Hoàng nào khai mạc?
c. Đức
Giáo Hoàng Piô XII.
b. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.
c. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
d. Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI.
b. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.
c. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
d. Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI.
08. Công đồng Vatican II được Đức Giáo Hoàng nào bế mạc?
a. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.
b. Đức Giáo Hoàng Piô XII.
c. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
d. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.
a. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.
b. Đức Giáo Hoàng Piô XII.
c. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
d. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.
09. Công đồng Vatican II được khai mạc vào ngày nào?
a. 11.10.1960
a. 11.10.1960
b.
11.10.1962
c. 25.12.1962
c. 25.12.1962
d.
01.01.2013
10. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã quyết định triệu tập Công
Ðồng Vatican II, bằng văn kiện nào?
a. Tông huấn "Humanae Salutis" (Ơn Cứu Ðộ Loài Người).
b. Tông thư tự sức “Porta Fedei” (Năm Đức Tin).
c. Thông điệp Redemptor Homilis (Đấng Cứu chuộc nhân thế).
a. Tông huấn "Humanae Salutis" (Ơn Cứu Ðộ Loài Người).
b. Tông thư tự sức “Porta Fedei” (Năm Đức Tin).
c. Thông điệp Redemptor Homilis (Đấng Cứu chuộc nhân thế).
d. Thông
điệp Deus caritas est (Thiên Chúa là tình yêu).
11. Công đồng Vatican II có bao nhiêu văn kiện?
a. 10
a. 10
b. 12
c. 14
c. 14
d. 16
12. Công đồng Vatican II có những Hiến Chế nào?
a. Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium).
b. Hiến chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium).
c. Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải của Thiên Chúa (Dei Verbum).
d. Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et Spes).
e. Cả a, b, c và d đúng.
a. Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium).
b. Hiến chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium).
c. Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải của Thiên Chúa (Dei Verbum).
d. Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et Spes).
e. Cả a, b, c và d đúng.
13. Công đồng Vatican II có những Tuyên ngôn nào?
a. Tuyên ngôn về giáo dục Kitô giáo (Gravissimum Educationis).
a. Tuyên ngôn về giáo dục Kitô giáo (Gravissimum Educationis).
b.Tuyên
ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo (Nostra Aetate).
c.Tuyên ngôn về tự do tôn giáo (Dignitatis Humanae).
d. Cả a, b và c đúng.
c.Tuyên ngôn về tự do tôn giáo (Dignitatis Humanae).
d. Cả a, b và c đúng.
14. Hiến chế là gì?
a. Bản văn của Công Đồng chung về Tín lý hay Mục vụ. Hiến chế có hiệu lực như một sắc luật cho cả thế giới.
b. Văn kiện của Tòa Thánh giải thích một đạo luật ban hành hay quãng diễn một vấn đề.
c. Văn kiện của Đức Giáo Hoàng quãng diễn một vấn đề, đặc biệt một vấn đề do Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới bàn thảo.
d. Văn kiện do Đức Giáo Hoàng kí và công bố, thường được viết do chính ngài đọc, kí tên, không có ấn triện
a. Bản văn của Công Đồng chung về Tín lý hay Mục vụ. Hiến chế có hiệu lực như một sắc luật cho cả thế giới.
b. Văn kiện của Tòa Thánh giải thích một đạo luật ban hành hay quãng diễn một vấn đề.
c. Văn kiện của Đức Giáo Hoàng quãng diễn một vấn đề, đặc biệt một vấn đề do Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới bàn thảo.
d. Văn kiện do Đức Giáo Hoàng kí và công bố, thường được viết do chính ngài đọc, kí tên, không có ấn triện
15. Tuyên ngôn là gì?
a. Văn kiện của Tòa Thánh giải thích một đạo luật ban hành hay quãng diễn một vấn đề.
a. Văn kiện của Tòa Thánh giải thích một đạo luật ban hành hay quãng diễn một vấn đề.
b. Văn
kiện do Đức Giáo Hoàng kí và công bố, thường được viết do chính ngài đọc, kí
tên, không có ấn triện
c. Văn kiện của Đức Giáo Hoàng về một vấn đề, gởi cho cả thế giới, dưới một bức thư chung.
d. Văn kiện của Đức Giáo Hoàng quãng diễn một vấn đề, đặc biệt một vấn đề do Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới bàn thảo
c. Văn kiện của Đức Giáo Hoàng về một vấn đề, gởi cho cả thế giới, dưới một bức thư chung.
d. Văn kiện của Đức Giáo Hoàng quãng diễn một vấn đề, đặc biệt một vấn đề do Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới bàn thảo
16. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được Đức Giáo Hoàng
nào công bố?
a. Đức Giáo Hoàng Piô XII.
b. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.
c. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
d. Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI.
a. Đức Giáo Hoàng Piô XII.
b. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.
c. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
d. Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI.
17. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được công bố năm
nào?
a. Năm 1980
a. Năm 1980
b. Năm
1982
c. Năm 1988
c. Năm 1988
d. Năm
1992
18. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được công bố với
văn kiện gì?
a. Fidei
Depositum (Kho Tàng Đức Tin).
b. Porta Fidei (Cánh Cửa Đức Tin).
c. Rerum Novarum (Tân sự).
d. Mater et Magistra (Mẹ và Thầy).
b. Porta Fidei (Cánh Cửa Đức Tin).
c. Rerum Novarum (Tân sự).
d. Mater et Magistra (Mẹ và Thầy).
19. Hội Thánh toàn cầu sẽ khai mạc Năm Đức Tin vào ngày 11
tháng Mười năm 2012, nhân kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng Chung Vatican II,
tại Việt Nam ngày khai mạc Năm Đức Tin chung ở cấp Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
sẽ cử hành vào ngày nào?
a. Ngày 07 tháng Mười 2012.
b. Ngày 12 tháng Mười 2012.
c. Ngày 18 tháng Mười 2012.
d. Ngày 21 tháng Mười 2012.
a. Ngày 07 tháng Mười 2012.
b. Ngày 12 tháng Mười 2012.
c. Ngày 18 tháng Mười 2012.
d. Ngày 21 tháng Mười 2012.
20. Hỏi: Ngày khai mạc Năm Đức Tin ở các Giáo Phận là ngày
nào?
a. Ngày 1 tháng Mười (Lễ Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu).
b. Ngày 7 tháng Mười (Lễ Đức Mẹ Mân Côi)
c. Ngày 18 tháng Mười (Lễ thánh Luca Tông đồ).
d. Ngày 21 tháng Mười (Lễ Khánh nhật truyền giáo).
a. Ngày 1 tháng Mười (Lễ Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu).
b. Ngày 7 tháng Mười (Lễ Đức Mẹ Mân Côi)
c. Ngày 18 tháng Mười (Lễ thánh Luca Tông đồ).
d. Ngày 21 tháng Mười (Lễ Khánh nhật truyền giáo).
21. Hỏi: Ngày khai mạc Năm Đức Tin tại các Giáo xứ là ngày
nào?
a. Ngày 1 tháng Mười (Lễ Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu).
b. Ngày 7 tháng Mười (Lễ Đức Mẹ Mân Côi)
c. Ngày 18 tháng Mười
(Lễ thánh Luca Tông đồ).
d. Ngày 21 tháng Mười (Lễ Khánh nhật truyền giáo).
a. Ngày 1 tháng Mười (Lễ Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu).
b. Ngày 7 tháng Mười (Lễ Đức Mẹ Mân Côi)
c. Ngày 18 tháng Mười
(Lễ thánh Luca Tông đồ).
d. Ngày 21 tháng Mười (Lễ Khánh nhật truyền giáo).
22. Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ
Giáo Lý Đức Tin thì đối với mọi tín hữu, Năm Đức Tin sẽ đem lại một cơ hội tốt
để làm gì?
a. Học hỏi kỹ lưỡng những văn kiện chính của Công đồngVatican II
b. Nghiên cứu sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo.
c. Nghiên cứu những tác phẩm chú giải Thánh Kinh kinh điển.
d. Chỉ có a và b đúng.
a. Học hỏi kỹ lưỡng những văn kiện chính của Công đồng
b. Nghiên cứu sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo.
c. Nghiên cứu những tác phẩm chú giải Thánh Kinh kinh điển.
d. Chỉ có a và b đúng.
23. Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ
Giáo Lý Đức Tin ở cấp giáo xứ, mọi tín hữu được mời gọi làm gì?
a. Chuyên
chú đọc và suy ngẫm Tự sắc Cánh cửa đức Tin (Porta Fidei ) của Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI.
b. Đọc và cầu nguyện với phương pháp Lectio Divina.
c. Sống đời sống đức ái một cách đặc biệt.
d. Chầu Thánh Thể và siêng năng lần hạt Mân côi.
b. Đọc và cầu nguyện với phương pháp Lectio Divina.
c. Sống đời sống đức ái một cách đặc biệt.
d. Chầu Thánh Thể và siêng năng lần hạt Mân côi.
24. Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ
Giáo Lý Đức Tin các giáo lý viên cần phải làm gì?
a. Cần khai thác hơn nữa giáo thuyết phong phú của sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo
b. Giúp các nhóm tín hữu đọc / và cùng tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của văn kiện quý báu này, để hình thành những cộng đoàn đức Tin nhỏ, làm chứng về Chúa Giêsu.
c. Phát triển phong trào Bảo vệ Sự Sống.
d. Chỉ có a và b đúng.
a. Cần khai thác hơn nữa giáo thuyết phong phú của sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo
b. Giúp các nhóm tín hữu đọc / và cùng tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của văn kiện quý báu này, để hình thành những cộng đoàn đức Tin nhỏ, làm chứng về Chúa Giêsu.
c. Phát triển phong trào Bảo vệ Sự Sống.
d. Chỉ có a và b đúng.
25. Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ
Giáo Lý Đức Tin, trong Năm Đức Tin, tu sĩ các Hội dòng và hội viên các Tu đoàn
tông đồ được mời gọi làm gì?
a. Dấn thân vào công cuộc tân Phúc âm hóa qua việc gắn bó mật thiết hơn nữa với Chúa Giêsu, theo đặc sủng riêng của mình / và trung thành với Đức Thánh Cha cũng như với giáo lý đúng đắn.
b. Chia sẻ cuộc sống trần thế với những anh chị em nghèo khó.
c. Giúp cho mọi người được biết Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
d. Cả a, b và c đúng.
a. Dấn thân vào công cuộc tân Phúc âm hóa qua việc gắn bó mật thiết hơn nữa với Chúa Giêsu, theo đặc sủng riêng của mình / và trung thành với Đức Thánh Cha cũng như với giáo lý đúng đắn.
b. Chia sẻ cuộc sống trần thế với những anh chị em nghèo khó.
c. Giúp cho mọi người được biết Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
d. Cả a, b và c đúng.
26. Trong cuộc hội thảo (từ ngày 10-13.7.2012) Ủy Ban
Mục Vụ Giới Trẻ HĐGMVN đã chọn chủ đề nào cho người trẻ sống Năm Đức Tin?
a. Cho niềm tin tươi sáng.
b. Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.
c. Chúa Kitô, niềm hy vọng của người trẻ.
d. Chúa Kitô, nguồn sống mới.
a. Cho niềm tin tươi sáng.
b. Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.
c. Chúa Kitô, niềm hy vọng của người trẻ.
d. Chúa Kitô, nguồn sống mới.
27. Câu Thánh Kinh của Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ HĐGMVN
đã chọn cho người trẻ sống Năm Đức Tin này là gì?
a. “Tôi biết tôi tin vào ai” (2 Tm 1,12).
b. “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,1).
c. “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,16).
d. “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6).
a. “Tôi biết tôi tin vào ai” (2 Tm 1,12).
b. “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,1).
c. “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,16).
d. “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6).
28. Trong cuộc hội thảo từ ngày mồng 10 đến 13 tháng 7 năm
2012 của Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, các tham dự viên đã
chọn ngày nào là ngày giới trẻ trong Năm Đức Tin tại các giáo phận và giáo xứ?
a. Ngày 25 tháng Hai 2013.
b. Ngày 1 tháng Ba 2013.
c. Ngày 13 tháng Ba 2013.
d. Ngày 19 tháng Ba 2013.
a. Ngày 25 tháng Hai 2013.
b. Ngày 1 tháng Ba 2013.
c. Ngày 13 tháng Ba 2013.
d. Ngày 19 tháng Ba 2013.
29. Trong cuộc Hội thảo do Uỷ ban Giới trẻ tổ chức tại Hải
Phòng (từ 10 đến 12-7-2012) Đức Gm. Giuse Vũ Văn Thiên nhắc lại lời của
Đức Thánh Cha đã viết là: “Một điều quan trọng trong Năm Đức Tinlà duyệt lại
lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự
thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của
những người nam nữ để làm tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng tá
cuộc sống của họ, còn lịch sử tội lỗi phải thúc giục mỗi người hoán cải chân
thành và trường kỳ để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha Đấng đến gặp tất cả
mọi người” (Porta Fidei, số 13). Duyệt lại đức tin có nghĩa là gì?
a. Là học hỏi giáo lý.
b. Là việc nhận ra vị trí của Chúa trong đời mình.
c. Là việc thể hiện đức tin trong cuộc sống thường ngày.
d. Cả a, b và c đúng.
a. Là học hỏi giáo lý.
b. Là việc nhận ra vị trí của Chúa trong đời mình.
c. Là việc thể hiện đức tin trong cuộc sống thường ngày.
d. Cả a, b và c đúng.
30. “Duyệt lại đức tin” vì sao trước hết là học hỏi giáo lý
?
a. Vì kiến thức “chắp vá” và rời rạc nên nhiều bạn trẻ dễ mất đức tin.
b. Vì những bạn trẻ xa quê thường rơi vào hai tình huống: một là mất hẳn đức tin; hai là mang một đức tin biến dạng, tổng hợp pha lẫn mê tín dị đoan.
c. Vì đức tin lung lạc, mà bạn trẻ quan niệm lệch lạc về tính dục, về luân lý và về thực hành đức tin (đi lễ, lãnh nhận các bí tích…)
d. Cả a, b và c đúng.
31. “Duyệt lại đức tin” vì sao còn là việc nhận ra vị trí của Chúa trong đời mình ?
a. Vì khi nghiêm túc nhìn lại cách sống đức tin của mình, bạn trẻ nhận ra Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống.
b. Sự hiện diện của Chúa giúp cho bạn trẻ niềm vui và niềm hăng say phấn khởi phụng sự Ngài.
c. Vì người tín hữu cũng cần xác định mình là ai trong mối tương quan với Chúa và với anh chị em, để nhờ đức tin thấm đượm vào cuộc đời, họ được biến đổi nên giống Đấng mà họ tin theo.
d. Cả a, b và c đúng.
32. “Duyệt lại đức tin” vì sao còn là việc thể hiện đức tin trong cuộc sống thường ngày ?
a. Vì kiến thức “chắp vá” và rời rạc nên nhiều bạn trẻ dễ mất đức tin.
b. Vì những bạn trẻ xa quê thường rơi vào hai tình huống: một là mất hẳn đức tin; hai là mang một đức tin biến dạng, tổng hợp pha lẫn mê tín dị đoan.
c. Vì đức tin lung lạc, mà bạn trẻ quan niệm lệch lạc về tính dục, về luân lý và về thực hành đức tin (đi lễ, lãnh nhận các bí tích…)
d. Cả a, b và c đúng.
31. “Duyệt lại đức tin” vì sao còn là việc nhận ra vị trí của Chúa trong đời mình ?
a. Vì khi nghiêm túc nhìn lại cách sống đức tin của mình, bạn trẻ nhận ra Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống.
b. Sự hiện diện của Chúa giúp cho bạn trẻ niềm vui và niềm hăng say phấn khởi phụng sự Ngài.
c. Vì người tín hữu cũng cần xác định mình là ai trong mối tương quan với Chúa và với anh chị em, để nhờ đức tin thấm đượm vào cuộc đời, họ được biến đổi nên giống Đấng mà họ tin theo.
d. Cả a, b và c đúng.
32. “Duyệt lại đức tin” vì sao còn là việc thể hiện đức tin trong cuộc sống thường ngày ?
a. Như
thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17).
b. Chứng thực mình là người tốt.
c. vì Muốn bắt chước mọi người.
d. Chỉ có a và b đúng.
b. Chứng thực mình là người tốt.
c. vì Muốn bắt chước mọi người.
d. Chỉ có a và b đúng.
33. Trong Tông thư Năm Đức Tin, Đức Giáo Hoàng đã dùng
từ "Cánh cửa đức tin". Từ này được trích từ sách nào? (Porta
Fidei Số 1)
a. Sách Công vụ tông đồ.
b. Thư gởi tín hữu Do thái.
c. Thư gởi tín hữu Rôma.
d. Sách Khải Huyền.
a. Sách Công vụ tông đồ.
b. Thư gởi tín hữu Do thái.
c. Thư gởi tín hữu Rôma.
d. Sách Khải Huyền.
34. "Cánh cửa đức tin" (Xc Cv 14,27) dẫn vào đời
sống hiệp thông với Thiên Chúa và vào Giáo Hội vẫn luôn mở rộng cho chúng ta.
Việc bước qua cánh cửa ấy kèm theo sự gì? (Porta Fidei Số 1)
a. Sự dấn thân trong một hành trình kéo dài suốt đời.
b. Lời hứa Nước Trời.
c. Lời hứa sẽ được sự sống vĩnh cửu.
d. Sẽ được sự bình an chân thật.
a. Sự dấn thân trong một hành trình kéo dài suốt đời.
b. Lời hứa Nước Trời.
c. Lời hứa sẽ được sự sống vĩnh cửu.
d. Sẽ được sự bình an chân thật.
35. Đức Giáo Hoàng luôn nhắc nhở về sự cần thiết phải tái
khám phá hành trình đức tin để ngày càng làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say
phấn khởi được đổi mới nhờ được gặp gỡ ai? (PF Số 2)
a. Anh em.
a. Anh em.
b. Chúa
Giêsu.
c. Giáo Hội.
c. Giáo Hội.
d. Thiên
Chúa.
36. Trong bài giảng Thánh Lễ khai mạc triều đại Giáo Hoàng,
Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã nói: "Giáo Hội nói chung và các vị Mục Tử
trong Giáo Hội, giống như ai, phải lên đường, để dẫn đưa con người ra khỏi sa
mạc, tiến đến sự sống, hướng về tình bạn với Con Thiên Chúa, về Ðấng ban cho
chúng ta sự sống, sự sống sung mãn" (Porta Fidei Số 2)
a. Người mục tử.
a. Người mục tử.
b. Chúa
Kitô.
c. Các Tông đồ.
c. Các Tông đồ.
d. Các
ngôn sứ
37. Chúng ta không thể chấp nhận để cho muối trở nên nhạt và
ánh sáng bị che kín (Xc Mt 5,13-16). Cả con người ngày nay cũng có thể tái cảm
thấy nhu cầu như người phụ nữ xứ Samaria đến giếng nước để làm gì? (Porta
Fidei Số 3)
a. Lắng nghe Chúa Giêsu, Ðấng mời gọi
b. Tin nơi Chúa Giêsu.
c. Kín múc nơi nguồn mạch của Chúa Giêsu vọt lên dòng nước sự sống.
d. Cả a, b và c đúng.
a. Lắng nghe Chúa Giêsu, Ðấng mời gọi
b. Tin nơi Chúa Giêsu.
c. Kín múc nơi nguồn mạch của Chúa Giêsu vọt lên dòng nước sự sống.
d. Cả a, b và c đúng.
38. Chúng ta phải tìm lại sở thích nuôi dưỡng mình bằng điều
gì? (Porta Fidei Số 3)
a. Lời Chúa.
a. Lời Chúa.
b. Bánh
Sự Sống.
c. Đức ái.
c. Đức ái.
d. Chỉ có
a và b đúng.
39. Giáo huấn của Chúa Giêsu vẫn còn vang dội mạnh mẽ ngày
nay như trước đây: "Các con hãy cố gắng làm việc không phải để được lương
thực mau qua, nhưng là lương thực tồn tại mãi mãi" (Ga 6,27). Câu hỏi mà
những người nghe Chúa nêu lên cũng là thắc mắc đối với chúng ta ngày nay và
chúng ta biết câu trả lời của Chúa Giêsu: "Công việc của Thiên Chúa là:
Anh em hãy tin nơi Ðấng mà Ngài đã sai đến" (Ga 6,29). Vì thế, tin nơi
Chúa Giêsu Kitô đó là gì? (Porta Fidei Số 3)
a. Con đường để có thể đạt tới ơn cứu độ một cách vĩnh viễn.
b. Đạt được hạnh phúc.
c. Cùng đích của con người
d. Sống bác ái với mọi người.
a. Con đường để có thể đạt tới ơn cứu độ một cách vĩnh viễn.
b. Đạt được hạnh phúc.
c. Cùng đích của con người
d. Sống bác ái với mọi người.
40. Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI quyết định ấn định Năm Ðức
Tin sẽ bắt đầu từ ngày nào?
(Porta
Fidei Số 4)
a. Ngày 11.10.2012
b. Ngày 08.12.1012
c. Ngày 25.12.1012
d. Ngày 01.01.2013
a. Ngày 11.10.2012
b. Ngày 08.12.1012
c. Ngày 25.12.1012
d. Ngày 01.01.2013
41. Trong Năm Đức Tin này Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI sẽ
triệu tập một Thượng HÐGM vào tháng 10 năm 2012 với đề tài gì? (Porta Fidei Số
4)
a. Về Lời Chúa.
b. Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin Kitô.
c. Thánh Thể.
d. Ơn gọi và Sứ mệnh của các Tín Hữu Giáo Dân trong Giáo Hội và trong thế giới.
a. Về Lời Chúa.
b. Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin Kitô.
c. Thánh Thể.
d. Ơn gọi và Sứ mệnh của các Tín Hữu Giáo Dân trong Giáo Hội và trong thế giới.
42. Khởi sự Năm Ðức Tin trùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai
mạc Công đồng chung Vatican II có thể là một cơ hội thích hợp để chúng
ta làm gì? (Porta Fidei Số 5)
a. Tuyên xưng đức tin mà chúng ta đã lãnh nhận.
b. Sống chứng nhân cho Chúa Giêsu Kitô giữa lòng thế giới đang tục hóa.
c. Hiểu rằng các văn kiện Công đồng, được các Nghị Phụ để lại như gia sản, "không bị mất giá trị, cũng như vẻ tươi sáng".
d. Cả a, b và c đúng.
a. Tuyên xưng đức tin mà chúng ta đã lãnh nhận.
b. Sống chứng nhân cho Chúa Giêsu Kitô giữa lòng thế giới đang tục hóa.
c. Hiểu rằng các văn kiện Công đồng, được các Nghị Phụ để lại như gia sản, "không bị mất giá trị, cũng như vẻ tươi sáng".
d. Cả a, b và c đúng.
43. Để hiểu các văn kiện của Công đồng, chúng ta cần đọc các
văn kiện ấy thế nào? (Porta Fidei Số 5)
a. Một cách thích hợp.
b. Cần biết rõ.
c. Hấp thụ các văn kiện ấy.
d. Cả a, b và c đúng.
a. Một cách thích hợp.
b. Cần biết rõ.
c. Hấp thụ các văn kiện ấy.
d. Cả a, b và c đúng.
44. Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI cảm thấy nghĩa vụ phải nêu
cao Công đồng như là gì? (Porta Fidei Số 5)
a. Hồng
ân lớn lao mà Giáo Hội được hưởng trong thế kỷ 20.
b. Một địa bàn chắc chắn để định hướng trong con đường của thế kỷ đang mở ra"
c. Trách nhiệm phải thi hành.
d. Chỉ có a và b đúng.
b. Một địa bàn chắc chắn để định hướng trong con đường của thế kỷ đang mở ra"
c. Trách nhiệm phải thi hành.
d. Chỉ có a và b đúng.
45. Chính cuộc sống giữa trần thế, các tín hữu được mời gọi
làm cho Lời Chân lý mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta được thế nào? (Porta
Fidei Số 6)
a. Chiếu sáng rạng ngời.
b. Công bố cho mọi người.
c. Thiên Chúa chúc lành.
d. Hiệp thông với mọi người.
a. Chiếu sáng rạng ngời.
b. Công bố cho mọi người.
c. Thiên Chúa chúc lành.
d. Hiệp thông với mọi người.
46. Từ sức mạnh của Chúa phục sinh, Giáo Hội kín múc năng
lực để làm gì? (Porta Fidei Số 6)
a. Kiên trì và yêu thương khắc phục những sầu muộn và khó khăn.
b. Để tỏ lộ mầu nhiệm về Chúa, giữa lòng thế giới, một cách trung thực cho đến khi mầu nhiệm ấy được tỏ lộ trong ánh sáng sung mãn vào cuối thời gian.c. Để hiệp nhất với mọi người trên toàn thế giới.
d. Chỉ có a và b đúng.
a. Kiên trì và yêu thương khắc phục những sầu muộn và khó khăn.
b. Để tỏ lộ mầu nhiệm về Chúa, giữa lòng thế giới, một cách trung thực cho đến khi mầu nhiệm ấy được tỏ lộ trong ánh sáng sung mãn vào cuối thời gian.c. Để hiệp nhất với mọi người trên toàn thế giới.
d. Chỉ có a và b đúng.
47. Năm Ðức Tin là một lời mời gọi thực hiện một cuộc trở về
cùng Chúa là ai? (Porta Fidei Số 6)
a. Đấng tạo dựng nên vũ trụ.
b. Ðấng duy nhất cứu độ thế giới.
c. Đấng giải phóng dân tộc Israen.
d. Đấng mà các ngôn sứ đã tiên báo.
a. Đấng tạo dựng nên vũ trụ.
b. Ðấng duy nhất cứu độ thế giới.
c. Đấng giải phóng dân tộc Israen.
d. Đấng mà các ngôn sứ đã tiên báo.
48. Tình yêu của ai thúc bách chúng ta? (Porta
Fidei Số 7)
a. Nhân loại.
a. Nhân loại.
b. Đấng tạo
dựng.
c. Chúa Kitô.
c. Chúa Kitô.
d. Mẹ
Maria.
49. "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta" (2 Cr
5,14): chính tình yêu Chúa Kitô làm đầy tâm hồn chúng ta và thúc đẩy chúng ta
làm gì? (Porta Fidei Số 7)
a. Xây dựng xã hội tốt đẹp.
b. Khai trí mọi người.
c. Loan báo Tin Mừng.
d. Chăm lo cho những người nghèo khổ.
a. Xây dựng xã hội tốt đẹp.
b. Khai trí mọi người.
c. Loan báo Tin Mừng.
d. Chăm lo cho những người nghèo khổ.
50. Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta hãy đọc những tác phẩm
của ai để tiến tới "cánh cửa đức tin". (Porta Fidei Số 7)
a. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu.
b. Thánh Têrêxa Avila.
c. Thánh Augustinô.
d. Thánh Tôma Aquinô.
a. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu.
b. Thánh Têrêxa Avila.
c. Thánh Augustinô.
d. Thánh Tôma Aquinô.
51. Trong dịp kỷ niệm tốt đẹp này, Đức Giáo Hoàng muốn mời
gọi các Giám Mục trên toàn thế giới hãy hiệp với Người Kế Vị Thánh Phêrô, trong
thời điểm ân phúc thiêng liêng mà Chúa ban cho chúng ta, để tưởng niệm điều
gì?(Porta Fidei Số 8)
a. Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.
b. Hồng ân đức tin quí giá.
c. Năm Thánh cứu độ.
d. Cả a, b và c đúng.
a. Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.
b. Hồng ân đức tin quí giá.
c. Năm Thánh cứu độ.
d. Cả a, b và c đúng.
52. Đức Giáo Hoàng kêu gọi cần gia tăng suy tư về đức tin để
giúp tất cả các tín hữu của Chúa Kitô ý thức hơn và củng cố lòng gắn bó với với
điều gì? (Porta Fidei Số 8)
a. Thánh Thể.
a. Thánh Thể.
b. Tin
Mừng.
c. Giáo Hội.
c. Giáo Hội.
d. Chúa
Kitô.
53. Trong Năm Ðức Tin này, Đức Giáo Hoàng kêu gọi các cộng
đoàn dòng tu cũng như các giáo xứ, và toàn thể các tổ chức Giáo Hội hãy tìm
cách làm cho việc tuyên xưng kinh gì một cách công khai? (Porta Fidei Số 8)
a. Kinh Lạy Cha.
b. Kinh Tin.
c. Kinh Tin Kính.
d. Kinh Cầu Trái Tim Chúa Giêsu.
a. Kinh Lạy Cha.
b. Kinh Tin.
c. Kinh Tin Kính.
d. Kinh Cầu Trái Tim Chúa Giêsu.
54. Chúng ta mong muốn rằng Năm Ðức Tin khơi dậy nơi mỗi tín
hữu khát vọng gì? (Porta Fidei Số 9)
a. Tuyên xưng đức tin trọn vẹn và với xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng.
b. Được sống hạnh phúc với Thiên Chúa.
c. Được hiệp thông với mọi chi thể đau khổ của Chúa Kitô.
d. Được loan báo tin mừng một cách tự do.
a. Tuyên xưng đức tin trọn vẹn và với xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng.
b. Được sống hạnh phúc với Thiên Chúa.
c. Được hiệp thông với mọi chi thể đau khổ của Chúa Kitô.
d. Được loan báo tin mừng một cách tự do.
55. Năm Đức Tin sẽ là một cơ hội thích hợp để tăng cường
việc cử hành đức tin trong phụng vụ, đặc biệt là trong Bí tích gì? (Porta Fidei
Số 9)
a. Thánh
Tẩy
b. Thánh
Thể
c. Sám Hối
c. Sám Hối
d. Truyền
Chức Thánh
56. Trong Năm Ðức Tin này sự quyết tâm mà mỗi tín hữu phải
biến thành của mình khi tái khám phá điều gì?(Porta Fidei Số 9)
a. Nội dung đức tin được tuyên xưng.
b. Cử hành, sống và cầu nguyện.
c. Suy tư về chính hành động đức tin.
d. Cả a, b và c đúng.
a. Nội dung đức tin được tuyên xưng.
b. Cử hành, sống và cầu nguyện.
c. Suy tư về chính hành động đức tin.
d. Cả a, b và c đúng.
57. Điều gì chỉ rằng hành vi đầu tiên ta đạt đến đức tin là
một hồng ân của Thiên Chúa và tác động của ơn thánh hành động và biến đổi con
người ngay từ nội tâm? (Porta Fidei Số 10)
a. Con tim
a. Con tim
b. Lòng
mộ mến
c. Sự tin tưởng
c. Sự tin tưởng
d. Đức ái
58. Việc tuyên xưng ngoài miệng cho thấy đức tin bao gồm
những việc gì? (Porta Fidei Số 10)
a. Làm chứng.
b. Dấn thân công khai.
c. Sống tình thân ái.
d. Chỉ có a và b đúng.
a. Làm chứng.
b. Dấn thân công khai.
c. Sống tình thân ái.
d. Chỉ có a và b đúng.
59. Việc hiểu biết đức tin dẫn chúng ta vào đâu? (Porta
Fidei Số 10)
a. Toàn bộ mầu nhiệm cứu độ được Thiên Chúa mạc khải.
b. Năm Đức Tin.
c. Tình yêu của Thiên Chúa .
d. Kinh Tin Kính.
a. Toàn bộ mầu nhiệm cứu độ được Thiên Chúa mạc khải.
b. Năm Đức Tin.
c. Tình yêu của Thiên Chúa .
d. Kinh Tin Kính.
60. Ðể hiểu biết một cách hệ thống về nội dung đức tin, tất
cả mọi người đều có thể tìm thấy ở đâu?(Porta Fidei Số 11)
a. Kinh Tin Kính các tông đồ.
b. Các văn kiện của Công Đồng chung Vatican II.
c. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo.
d. Cả a, b và c đúng.
a. Kinh Tin Kính các tông đồ.
b. Các văn kiện của Công Đồng chung Vatican II.
c. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo.
d. Cả a, b và c đúng.
61. Ðức Chân Phước Gioan Phaolô II đã viết: Sách Giáo lý này
sẽ mang lại một đóng góp quan trọng cho công trình gì? (Porta Fidei Số 11)
a. Hòa giải giữa các dân tộc.
b. Phát triển các dân tộc.
c. Canh tân toàn thể đời sống Giáo Hội.
d. Hiệp nhất các tin hữu tin vào Thiên Chúa.
a. Hòa giải giữa các dân tộc.
b. Phát triển các dân tộc.
c. Canh tân toàn thể đời sống Giáo Hội.
d. Hiệp nhất các tin hữu tin vào Thiên Chúa.
62. Khi tìm hiểu Sách Giáo Lý chúng ta khám phá thấy rằng
đức tin được trình bày trong Sách Giáo Lý không phải là một lý thuyết, nhưng là
gì?(Porta Fidei Số 11)
a. Một cuộc gặp gỡ với Ðấng sống trong Giáo Hội.
b. Một chương trình sống cụ thể.
c. Một trãi nghiệm của người Kitô.
d. Ân sủng dành cho mỗi người.
a. Một cuộc gặp gỡ với Ðấng sống trong Giáo Hội.
b. Một chương trình sống cụ thể.
c. Một trãi nghiệm của người Kitô.
d. Ân sủng dành cho mỗi người.
63. Trong Năm Ðức Tin, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công
Giáo có thể là một dụng cụ đích thực nâng đỡ điều gì? (Porta Fidei Số 12)
a. Đức tin.
b. Đời sống tinh thần của người trẻ.
c. Kiến thức thực hành hằng ngày.
d. Sự kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô.
a. Đức tin.
b. Đời sống tinh thần của người trẻ.
c. Kiến thức thực hành hằng ngày.
d. Sự kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô.
64. Đức tin ngày nay đang phải chịu một loạt những vấn nạn
đến từ não trạng thay đổi, đặc biệt là những lãnh vực nào? (Porta Fidei Số 12)
a. Khoa học
a. Khoa học
b. Nghệ
thuật
c. Kỹ thuật
c. Kỹ thuật
d. Chỉ có
a và c đúng
65. Giáo Hội không bao giờ sợ chứng minh rằng giữa đức tin
và khoa học chân chính không hề có xung đột, vì cả hai đều hướng về sự gì?
(Porta Fidei Số 12)
a. Nâng cao nhận thức của con người.
b. Sự thật.
c. Giúp đỡ con người trước những thảm họa của thiên nhiên.
d. Cải thiện đời sống của phần đông nhân loại.
a. Nâng cao nhận thức của con người.
b. Sự thật.
c. Giúp đỡ con người trước những thảm họa của thiên nhiên.
d. Cải thiện đời sống của phần đông nhân loại.
66. Một điều quan trọng trong Năm Ðức tin là duyệt lại lịch
sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh
thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những
người nam nữ là gì? (Porta Fidei Số 13)
a. Làm tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng tá cuộc sống của họ.
b. Sống công bằng bác ái.
c. Sống yêu thương mọi người.
d. Làm giảm nhẹ những đau khở của những người bị bỏ rơi.
a. Làm tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng tá cuộc sống của họ.
b. Sống công bằng bác ái.
c. Sống yêu thương mọi người.
d. Làm giảm nhẹ những đau khở của những người bị bỏ rơi.
67. Một điều quan trọng trong Năm Ðức tin là duyệt lại lịch
sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh
thiện và tội lỗi. Lịch ử tội lỗi phải thúc giục mỗi người phải làm gì? (Porta
Fidei Số 13)
a. Hoán cải chân thành và trường kỳ để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha Ðấng đến gặp tất cả mọi người.
b. Từ bỏ tội lỗi của mình.
c. Ăn chay và cầu nguyện cho tội lỗi của mình và của tha nhân.
d. Yêu thương mọi người như chính mình.
a. Hoán cải chân thành và trường kỳ để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha Ðấng đến gặp tất cả mọi người.
b. Từ bỏ tội lỗi của mình.
c. Ăn chay và cầu nguyện cho tội lỗi của mình và của tha nhân.
d. Yêu thương mọi người như chính mình.
68. Trong thời điểm này, chúng ta hãy luôn hướng nhìn về
ai,"là nguồn gốc và là tận điểm của đức tin"?(Porta Fidei Số 13?
a. Mẹ Maria.
a. Mẹ Maria.
b. Thiên
Chúa.
c. Chúa Giêsu Kitô.
c. Chúa Giêsu Kitô.
d. Đức
Giáo Hoàng
69. Năm
Ðức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng tá điều gì?
(Porta Fidei Số 14)
a. Bác ái.
a. Bác ái.
b. Đức tin.
c. Sự hiệp thông.
c. Sự hiệp thông.
d. Sự hiệp nhất.
70. Ðức
tin không có đức mến thì không mang lại thành quả và đức mến không có đức tin
thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Ðức tin và đức mến cần có
nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình. Đúng hay sai?
(Porta Fidei Số 14)
a. Đúng
a. Đúng
b. Sai
71. Nhờ
đức tin, chúng ta có thể nhận ra điều gì nơi những người đang xin tình thương
của chúng ta?(Porta Fidei Số 14)
a. Tôn nhan Chúa Phục sinh.
b. Anh em của mình.
c. Lòng yêu thương.
d. Cả a, b và c đúng.
a. Tôn nhan Chúa Phục sinh.
b. Anh em của mình.
c. Lòng yêu thương.
d. Cả a, b và c đúng.
72. Thánh
Phaolô tông đồ yêu cầu môn đệ Timôthê hãy "tìm kiếm đức tin" (Xc 1 Tm
2,22) và chúng ta cảm thấy lời mời gọi này được gửi đến mỗi người chúng ta để
làm gì? (Porta Fidei Số 15)
a. Không ai trong chúng ta trở nên lười biếng trong đức tin.
b. Lớn mạnh trong đức tin.
c. Không mất đức tin.
d. Kiên vững trong đức tin giưa bao cám dỗ thử thách.
73. Ðức tin là bạn đồng hành trong cuộc sống, giúp chúng ta làm gì? (Porta Fidei Số 15)
a. Không ai trong chúng ta trở nên lười biếng trong đức tin.
b. Lớn mạnh trong đức tin.
c. Không mất đức tin.
d. Kiên vững trong đức tin giưa bao cám dỗ thử thách.
73. Ðức tin là bạn đồng hành trong cuộc sống, giúp chúng ta làm gì? (Porta Fidei Số 15)
a. Nhận thức với một cái nhìn luôn
mới mẻ về những kỳ công mà Thiên Chúa thực hiện nơi chúng ta.
b. Đón nhận những dấu chỉ thời đại
trong hiện tại của lịch sử.
c. Thúc đẩy mỗi người chúng ta trở
thành dấu chỉ sinh động về sự hiện diện của Ðấng Phục Sinh trong thế giới.
d. Cả a, b và c đúng.
74. Cuộc sống của các tín hữu Kitô
cảm nghiệm điều gì? (Porta Fidei Số 15)
a. Sự thanh thản
b. Niềm vui
c. Đau khổ
d. Chỉ có b và c đúng.
75. Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta hãy phó
thác thời điểm hồng phúc này cho ai?
(Porta Fidei Số 15)
a. Chúa Cha.
b. Chúa Thánh Thần.
c. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
d. Các Hội Đồng Giám Mục.
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
75 CÂU HỎI-ĐÁP HỌC HỎI TÔNG THƯ TỰ SẮC
"PORTA FIDEI"
01. Hỏi: Năm Đức Tin lần thứ I diễn ra dưới triều đại Đức Giáo
Hoàng nào?
Thưa: Năm Đức Tin lần thứ I diễn ra dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.
Thưa: Năm Đức Tin lần thứ I diễn ra dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.
02. Hỏi: Năm Đức Tin lần thứ I diễn ra vào năm nào?
Thưa: Năm Đức Tin lần thứ I diễn ra vào năm 1967.
03. Hỏi: Năm Đức Tin lần thứ I kỷ niệm sự kiện gì?
Thưa: Năm Đức Tin lần thứ I kỷ niệm 1900 năm tử đạo của 2 thánh
Phêrô và Phaolô tông đồ.
04. Hỏi: Năm Đức Tin lần thứ II diễn ra dưới triều đại Đức Giáo
Hoàng nào?
Thưa: Năm Đức Tin lần thứ II diễn ra dưới triều đại Đức Giáo
Hoàng Bênêđíctô XVI.
05. Hỏi: Năm Đức Tin lần thứ II kỷ niệm sự kiện gì?
Thưa: Năm Đức Tin thứ II kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng chung
Vatican II; và 20 năm ban hành sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo.
06. Hỏi: Năm Đức Tin sẽ kết thúc vào ngày lễ gì?
Thưa: Năm Đức Tin sẽ kết thúc vào ngày lễ Chúa Giêsu Kitô Vua
vũ trụ năm 2013.
07. Hỏi: Công đồng Vatican II
được Đức Giáo Hoàng nào khai mạc?
Thưa: Công đồng Vatican II được Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII khai
mạc.
08. Hỏi: Công đồng Vatican II
được Đức Giáo Hoàng nào bế mạc?
Thưa: Công đồng Vatican II được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI bế
mạc.
09. Hỏi: Công đồng Vatican II
được khai mạc vào ngày nào?
Thưa: Công đồng Vatican II được khai mạc vào ngày 11 tháng mười năm
1962.
10. Hỏi: Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã quyết định triệu tập Công
Ðồng Vatican II, bằng văn kiện nào?
Thưa: Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã quyết định triệu tập Công Ðồng
Vatican II bằng Tông huấn Ơn Cứu Ðộ Loài Người ("Humanae Salutis”).
11. Hỏi: Công đồng Vatican II có
bao nhiêu văn kiện?
Thưa: Công đồng Vatican II có 16 văn kiện.
12. Hỏi: Công đồng Vatican II có
những Hiến Chế nào?
Thưa: - Một là Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium)
- Hai là Hiến chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium)
- Ba là Hiến chế tín lý về Mạc Khải của Thiên Chúa (Dei Verbum)
- Bốn là Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et Spes)
- Bốn là Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et Spes)
13. Hỏi: Công đồng Vatican II có
những Tuyên ngôn nào?
Thưa: - Một là Tuyên ngôn về giáo dục Kitô giáo (Gravissimum
Educationis)
- Hai là Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo (Nostra Aetate)
- Hai là Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo (Nostra Aetate)
- Ba là Tuyên ngôn về tự do tôn giáo (Dignitatis Humanae)
14. Hỏi: Hiến chế là gì?
Thưa: Hiến chế là Bản văn của Công Đồng chung về Tín lý hay Mục vụ.
Hiến chế có hiệu lực như một sắc luật cho cả Giáo Hội.
15. Hỏi: Tuyên ngôn là gì?
Thưa: Tuyên ngôn là văn kiện của Tòa Thánh giải thích một đạo luật
ban hành hay quảng diễn một vấn đề.
16. Hỏi: Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được Đức Giáo Hoàng
nào công bố?
Thưa: Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II công bố.
17. Hỏi: Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được công bố năm nào?
Thưa: Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được công bố năm 1992.
18. Hỏi: Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được công bố với văn
kiện gì?
Thưa: Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được công bố với Tông
Hiến ‘Kho Tàng Đức Tin’ (Fidei Depositum ).
19. Hỏi: Hội Thánh toàn cầu sẽ khai mạc Năm Đức Tin vào ngày 11
tháng Mười năm 2012, nhân kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng Chung Vatican II,
tại Việt Nam ngày khai mạc Năm Đức Tin chung ở Giáo Hội Việt Nam sẽ cử hành vào
ngày nào?
Thưa: Ở cấp Hội Đồng Giám Mục Việt Nam , Năm Đức Tin sẽ được khai mạc
vào ngày 12 tháng Mười năm 2012.
20. Hỏi: Ngày khai mạc Năm Đức Tin ở các Giáo Phận là ngày nào?
Thưa: Ngày khai mạc Năm Đức Tin cấp giáo phận là vào ngày Lễ thánh
Luca Tông đồ (Ngày 18 tháng 10 năm 2012)
21. Hỏi: Ngày khai mạc Năm Đức Tin tại các Giáo xứ là ngày nào?
Thưa: Ngày khai mạc Năm Đức Tin trong toàn thể các giáo xứ toàn
quốc là vào ngày Lễ Khánh nhật truyền giáo (Ngày 21 tháng 10 năm 2012).
22. Hỏi: Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ Giáo
Lý Đức Tin thì đối với mọi tín hữu, Năm Đức Tin sẽ đem lại một cơ hội tốt để
làm gì?
Thưa: - Một là học hỏi kỹ lưỡng những văn kiện chính của Công đồng
Vatican II
- Hai là nghiên cứu sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo.
- Hai là nghiên cứu sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo.
23. Hỏi: Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ Giáo
Lý Đức Tin ở cấp giáo xứ, mọi tín hữu được mời gọi làm gì?
Thưa: Mọi tín hữu được mời gọi chuẩn bị Năm Đức Tin bằng cách
chuyên chú đọc và suy ngẫm Tự sắc Cánh cửa đức Tin (Porta Fidei) của Đức Thánh
Cha Bênêđictô XVI.
24. Hỏi: Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ Giáo
Lý Đức Tin các giáo lý viên cần phải làm gì?
Thưa: Các giáo lý viên cần khai thác hơn nữa giáo thuyết phong phú
của sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo, đồng thời dưới sự hướng dẫn của cha sở,
giúp các nhóm tín hữu đọc / và cùng tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của văn kiện quý
báu này, để hình thành những cộng đoàn đức tin nhỏ, làm chứng về Chúa Giêsu.
25. Hỏi: Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ Giáo
Lý Đức Tin, trong Năm Đức Tin, tu sĩ các Hội dòng và hội viên các Tu đoàn tông
đồ được mời gọi làm gì?
Thưa : Họ được mời gọi dấn thân vào công cuộc tân Phúc âm hóa qua
việc gắn bó mật thiết hơn nữa với Chúa Giêsu, theo đặc sủng riêng của mình / và
trung thành với Đức Thánh Cha cũng như với giáo lý đúng đắn.
26. Hỏi: Trong cuộc hội thảo từ ngày mồng 10 đến 13 tháng 7 năm
2012, Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam / đã chọn chủ đề nào
cho người trẻ sống Năm Đức Tin?
Thưa: Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam / đã
chọn chủ đề cho người trẻ sống Năm Đức Tin là : ‘Cho niềm tin tươi sáng’.
27. Hỏi: Câu Thánh Kinh của Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam / đã
chọn cho người trẻ sống Năm Đức Tin này là gì?
Thưa: Câu Thánh Kinh của Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam /
đã chọn cho người trẻ sống Năm Đức Tin là : “Tôi biết tôi tin vào ai” (2 Tm
1,12).
28. Hỏi: Ủy ban mục vụ Giới trẻ của HĐGM Việt Nam đã chọn cử hành
ngày giới trẻ trong Năm Đức Tin tại các Giáo Phận, Giáo xứ vào ngày nào?
Thưa: Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ đã chọn ngày 13 tháng 3 năm 2013.
Thưa: Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ đã chọn ngày 13 tháng 3 năm 2013.
29. Hỏi. Trong cuộc Hội thảo do Uỷ ban Mục Vụ Giới trẻ tổ chức tại
Hải Phòng (từ 10 đến 12-7-2012) Đức Gm. Giuse Vũ Văn Thiên nhắc lại lời
của Đức Thánh Cha đã viết là: “Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin là
duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường
giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn
lao của những người nam nữ để làm tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng
chứng tá cuộc sống của họ, còn lịch sử tội lỗi phải thúc giục mỗi người hoán
cải chân thành và trường kỳ để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha Đấng đến gặp
tất cả mọi người” (Porta Fidei, số 13). Duyệt lại đức tin có nghĩa là gì?
Thưa :
- Một là học hỏi giáo lý.
- Một là học hỏi giáo lý.
- Hai là việc nhận ra vị trí của Chúa trong đời mình.
- Ba là việc thể hiện đức tin trong cuộc sống thường ngày.
30. Hỏi. “Duyệt lại đức tin” trước hết là học hỏi giáo lý nghĩa là
gì?
Thưa: Vì kiến thức “chắp vá” và rời rạc nên nhiều bạn trẻ dễ mất
đức tin. Những bạn trẻ xa quê thường rơi vào hai tình huống: một là mất hẳn đức
tin; hai là mang một đức tin biến dạng, tổng hợp pha lẫn mê tín dị đoan. Chính
vì đức tin lung lạc, mà bạn trẻ quan niệm lệch lạc về tính dục, về luân lý và
về thực hành đức tin (đi lễ, lãnh nhận các bí tích…)
31. Hỏi: “Duyệt lại đức tin” còn là việc nhận ra vị trí của Chúa
trong đời mình nghĩa là thế nào?
Thưa: Câu hỏi mà Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ: “Các anh bảo
Thầy là ai?” luôn mang tính hiện tại đối với các tín hữu. Khi nghiêm túc nhìn
lại cách sống đức tin của mình, bạn trẻ nhận ra Chúa luôn hiện diện trong cuộc
sống. Sự hiện diện của Chúa giúp cho bạn trẻ niềm vui và niềm hăng say phấn
khởi phụng sự Ngài. Khi cố gắng trả lời câu hỏi “Đức Giêsu là ai?’, người tín
hữu cũng cần xác định mình là ai trong mối tương quan với Chúa và với anh chị
em, để nhờ đức tin thấm đượm vào cuộc đời, họ được biến đổi nên giống Đấng mà
họ tin theo.
32. Hỏi: “Duyệt lại đức tin” còn là việc thể hiện đức tin trong cuộc
sống thường ngày nghĩa là gì?
Thưa: Như thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin
chết” (Gc 2,17). Ngày nay, nhiều bạn trẻ sống ích kỷ, khép kín, thiếu tinh thần
trách nhiệm nên nhiều tệ nạn xã hội gia tăng … và trong đó thi thoảng cũng có
những bạn trẻ là Kitô hữu.
33. Hỏi: Trong Tông thư Năm Đức Tin, Đức Giáo Hoàng đã dùng từ
"Cánh cửa đức tin". Từ này được trích từ sách nào? (Porta Fidei Số 1)
Thưa: Từ "Cánh cửa đức tin" được trích từ Sách Công vụ
tông đồ (Xc Cv 14,27).
34. Hỏi: "Cánh cửa đức tin" dẫn vào đời sống hiệp thông
với Thiên Chúa và vào Giáo Hội vẫn luôn mở rộng cho chúng ta. Việc bước qua
cánh cửa ấy kèm theo sự gì? (Porta Fidei Số 1)
Thưa: Việc bước qua cánh cửa ấy kèm theo sự dấn thân trong một hành
trình kéo dài suốt đời.
35. Hỏi: Đức Giáo Hoàng luôn nhắc nhở về sự cần thiết phải tái khám
phá hành trình đức tin / để ngày càng làm nổi bật niềm vui / và lòng hăng say
phấn khởi được đổi mới nhờ được gặp gỡ ai? (Porta Fidei Số 2)
Thưa: Gặp gỡ Chúa Giêsu
36. Hỏi: Giáo Hội và các vị Mục Tử phải giống như ai, để dẫn đưa
con người ra khỏi sa mạc, tiến đến sự sống, hướng về tình bạn với Con Thiên
Chúa, về Ðấng ban cho chúng ta sự sống, sự sống sung mãn? (Porta Fidei Số 2)
Thưa: "Giáo Hội và các vị Mục Tử trong Giáo Hội, giống như
Chúa Kitô, phải lên đường, để dẫn đưa con người ra khỏi sa mạc, tiến đến sự
sống, hướng về tình bạn với Con Thiên Chúa, về Ðấng ban cho chúng ta sự sống,
sự sống sung mãn".
37. Hỏi: Chúng ta không thể chấp nhận để cho muối trở nên nhạt / và
ánh sáng bị che kín (Xc Mt 5,13-16). Cả con người ngày nay cũng có thể tái cảm
thấy nhu cầu như người phụ nữ xứ Samaria đến
giếng nước để làm gì? (Porta Fidei Số 3)
Thưa: - Một là lắng nghe Chúa Giêsu, Ðấng mời gọi
- Hai là hãy tin nơi Chúa Giêsu
- Ba là kín múc nơi nguồn mạch của Chúa Giêsu vọt lên dòng nước sự
sống.
38. Hỏi: Chúng ta phải tìm lại sở thích nuôi dưỡng mình bằng điều
gì? (PF Số 3)
Thưa: Chúng ta phải tìm lại sở thích nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa
và Bánh Sự Sống.
39. Hỏi: Giáo huấn của Chúa Giêsu vẫn còn vang dội mạnh mẽ ngày nay
như trước đây: "Các con hãy cố gắng làm việc không phải để được lương thực
mau qua, nhưng là lương thực tồn tại mãi mãi" (Ga 6,27). Câu hỏi mà những
người nghe Chúa nêu lên cũng là thắc mắc đối với chúng ta ngày nay và chúng ta
biết câu trả lời của Chúa Giêsu: "Công việc của Thiên Chúa là: Anh em hãy
tin nơi Ðấng mà Ngài đã sai đến" (Ga 6,29). Vì thế, tin nơi Chúa Giêsu
Kitô đó là gì? (Porta Fidei Số 3)
Thưa: Tin nơi Chúa Giêsu Kitô / đó là con đường để có thể đạt tới
ơn cứu độ một cách vĩnh viễn.
40. Hỏi: Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI quyết định ấn định Năm Ðức
Tin sẽ bắt đầu từ ngày nào? (Porta Fidei Số 4)
Thưa: Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI quyết định ấn định Năm Ðức Tin
sẽ bắt đầu từ ngày 11 tháng Mười năm 2012.
41. Hỏi: Trong Năm Đức Tin này / Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI sẽ
triệu tập một Thượng Hội Đồng Giám Mục vào tháng 10 năm 2012 với đề tài gì?
(Porta Fidei Số 4)
Thưa: Trong Năm Đức Tin này / Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI sẽ triệu
tập một Thượng Hội Đồng Giám Mục vào tháng 10 năm 2012 với đề tài là / ‘Tái
truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin Kitô’.
42. Hỏi: Khởi sự Năm Ðức Tin trùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc
Công đồng chung Vatican II / có thể là một cơ hội thích hợp để chúng ta làm gì?
(Porta Fidei Số 5)
Thưa: Để chúng ta hiểu rằng / các văn kiện Công đồng, được các Nghị
Phụ để lại như gia sản, "không bị mất giá trị, cũng như vẻ tươi
sáng".
43. Hỏi: Để hiểu các văn kiện của Công đồng, chúng ta cần đọc các
văn kiện ấy thế nào? (Porta Fidei Số 5)
Thưa: Để hiểu các văn kiện của Công đồng, chúng ta cần đọc các văn
kiện ấy một cách thích hợp, cần biết rõ và hấp thụ các văn kiện ấy / như những
văn bản giá trị / và có tính chất qui phạm của Huấn Quyền Hội Thánh, giữa lòng
Truyền Thống của Giáo Hội.
44. Hỏi: Đức Giáo
Hoàng Bênêđíctô XVI cảm thấy nghĩa vụ phải nêu cao Công đồng như là gì? (Porta
Fidei Số 5)
Thưa: Đức Giáo
Hoàng Bênêđíctô XVI cảm thấy nghĩa vụ phải nêu cao Công đồng / như là hồng ân
lớn lao mà Giáo Hội được hưởng trong thế kỷ 20 : trong đó chúng ta được một địa
bàn chắc chắn / để định hướng trong con đường của thế kỷ đang mở ra.
45. Hỏi: Chính
cuộc sống giữa trần thế, các tín hữu được mời gọi làm cho Lời Chân lý mà Chúa
Giêsu để lại cho chúng ta được thế nào?(Porta Fidei Số 6)
Thưa: Được chiếu
sáng rạng ngời.
46. Hỏi: Từ sức
mạnh của Chúa phục sinh, Giáo Hội kín múc năng lực để làm gì? (Porta Fidei Số
6)
Thưa: Từ sức mạnh
của Chúa phục sinh, Giáo Hội kín múc năng lực / để kiên trì và yêu thương /
khắc phục những sầu muộn và khó khăn / và để tỏ lộ mầu nhiệm về Chúa, giữa lòng
thế giới, một cách trung thực cho đến khi mầu nhiệm ấy được tỏ lộ / trong ánh
sáng sung mãn vào cuối thời gian.
47. Hỏi: Năm
Ðức Tin là một lời mời gọi thực hiện một cuộc trở về cùng Chúa là ai? (Porta
Fidei Số 6)
Thưa: Năm Ðức Tin
là một lời mời gọi thực hiện một cuộc trở về cùng Chúa / là Ðấng duy nhất cứu
độ thế giới
48. Hỏi: Tình
yêu của ai thúc bách chúng ta? (Porta Fidei Số 7)
Thưa: Tình yêu của
Chúa Kitô thúc bách chúng ta (2 Cr 5,14).
49. Hỏi:
"Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta" : chính tình yêu Chúa Kitô
làm đầy tâm hồn chúng ta và thúc đẩy chúng ta làm gì?(Porta Fidei Số 7)
Thưa: "Tình
yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta" : chính tình yêu Chúa Kitô làm đầy tâm
hồn chúng ta và thúc đẩy chúng ta Loan báo Tin Mừng.
50. Hỏi: Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta hãy đọc những tác phẩm của
ai để tiến tới "cánh cửa đức tin".(Porta Fidei Số 7)
Thưa: Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta hãy đọc những tác phẩm của
Thánh Augustinô để tiến tới "cánh cửa đức tin".
51. Hỏi: Trong dịp kỷ niệm tốt đẹp này, Đức Giáo Hoàng muốn mời gọi
các Giám Mục trên toàn thế giới / hãy hiệp với Người Kế Vị Thánh Phêrô, trong
thời điểm ân phúc thiêng liêng mà Chúa ban cho chúng ta, để tưởng niệm điều
gì?(Porta Fidei Số 8)
Thưa: Để tưởng niệm Hồng ân đức tin quí giá.
52. Hỏi: Đức Giáo Hoàng kêu gọi cần gia tăng suy tư về đức tin để
giúp tất cả các tín hữu của Chúa Kitô ý thức hơn và củng cố lòng gắn bó với với
điều gì?(PF Số 8)
Thưa: Đức Giáo Hoàng kêu gọi cần gia tăng suy tư về đức tin / để
giúp tất cả các tín hữu của Chúa Kitô ý thức hơn và củng cố lòng gắn bó với Tin
Mừng.
53. Hỏi: Trong Năm Ðức Tin này, Đức Giáo Hoàng kêu gọi các cộng
đoàn dòng tu cũng như các giáo xứ, và toàn thể các tổ chức Giáo Hội / hãy tìm
cách làm cho việc tuyên xưng kinh gì một cách công khai? (Porta Fidei Số 8)
Thưa: Tuyên xưng Kinh Tin Kính.
54. Hỏi: Chúng ta mong muốn rằng Năm Ðức Tin khơi dậy nơi mỗi tín
hữu khát vọng gì? (Porta Fidei Số 9)
Thưa: Chúng ta mong muốn rằng / Năm Ðức Tin khơi dậy nơi mỗi tín
hữu / khát vọng Tuyên xưng đức tin trọn vẹn / và với xác tín được đổi mới,
trong niềm tín thác và hy vọng.
55. Hỏi: Năm Đức Tin sẽ là một cơ hội thích hợp / để tăng cường
việc cử hành đức tin trong phụng vụ, đặc biệt là trong Bí tích gì? (Porta Fidei
Số 9)
Thưa: Trong Thánh Thể, vốn là 'tột đỉnh mà hoạt động của Giáo Hội
hướng tới / và đồng thời cũng là nguồn mạch / từ đó phát sinh toàn thể
năng lực của Giáo Hội"
56. Hỏi: Trong Năm Ðức Tin này / sự quyết tâm mà mỗi tín hữu phải
biến thành của mình khi tái khám phá điều gì? (PF Số 9)
Thưa: Trong Năm Ðức Tin này / sự quyết tâm mà mỗi tín hữu phải biến
thành của mình / khi tái khám phá nội dung đức tin được tuyên xưng, cử
hành, sống và cầu nguyện / và suy tư về chính hành động đức tin.
57. Hỏi: Điều gì chỉ rằng hành vi đầu tiên ta đạt đến đức tin là
một hồng ân của Thiên Chúa / và tác động của ơn thánh hành động / và biến
đổi con người ngay từ nội tâm? (Porta Fidei Số 10)
Thưa: Đó là con tim.
58. Hỏi: Việc tuyên xưng ngoài miệng cho thấy đức tin bao gồm những
việc gì? (Porta Fidei Số 10)
Thưa: Việc tuyên xưng ngoài miệng / cho thấy đức tin bao gồm việc
làm chứng và sự dấn thân công khai.
59. Hỏi: Việc hiểu biết đức tin dẫn chúng ta vào đâu? (Porta Fidei
Số 10)
Thưa: Việc hiểu biết đức tin dẫn chúng ta vào toàn bộ mầu nhiệm cứu
độ được Thiên Chúa mạc khải.
60. Hỏi: Ðể hiểu biết một cách hệ thống về nội dung đức tin, tất cả
mọi người đều có thể tìm thấy ở đâu? (Porta Fidei Số 11)
Thưa: Ðể hiểu biết một cách hệ thống về nội dung đức tin, tất cả
mọi người đều có thể tìm thấy trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo.
61. Hỏi: Ðức Chân Phước Gioan Phaolô II đã viết : Sách Giáo lý của
Hội Thánh Công giáo này sẽ mang lại một đóng góp quan trọng cho công trình gì?
(Porta Fidei Số 11)
Thưa: Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo này sẽ mang lại một đóng
góp quan trọng cho công trình Canh tân toàn thể đời sống Giáo Hội.
62. Hỏi: Khi tìm hiểu Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo / chúng ta khám phá thấy rằng / đức tin được trình bày trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo không phải là một lý thuyết, nhưng là gì? (PF 11)
Thưa: Là một cuộc gặp gỡ với Ðấng sống trong Giáo Hội.
63. Hỏi: Trong Năm Ðức Tin, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo có
thể là một dụng cụ đích thực nâng đỡ điều gì? (Porta Fidei Số 12)
Thưa: Trong Năm Ðức Tin, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo có
thể là một dụng cụ đích thực nâng đỡ đức tin.
64. Hỏi: Đức tin ngày nay đang phải chịu một loạt những vấn nạn đến
từ não trạng thay đổi, đặc biệt là những lãnh vực nào? (Porta Fidei Số 12)
Thưa: Là lãnh vực những chinh phục của khoa học và kỹ thuật.
65. Hỏi: Giáo Hội không bao giờ sợ chứng minh rằng giữa đức tin và
khoa học chân chính không hề có xung đột, vì cả hai đều hướng về sự gì? (Porta
Fidei Số 12)
Thưa: Vì cả hai đều hướng về sự thật tuy là bằng những con đường
khác nhau.
66. Hỏi: Một điều quan trọng trong Năm Ðức Tin là duyệt lại lịch sử
đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện
và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người
nam nữ là gì? (Porta Fidei Số 13)
Thưa: Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những
người nam nữ / để làm tăng trưởng / và phát triển cộng đoàn bằng chứng tá cuộc
sống của họ.
67. Hỏi: Một điều quan trọng trong Năm Ðức tin là duyệt lại lịch sử
đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện
và tội lỗi. Lịch sử tội lỗi phải thúc giục mỗi người phải làm gì? (Porta Fidei
Số 13)
Thưa: Lịch sử tội lỗi phải thúc giục mỗi người hoán cải chân thành
và trường kỳ / để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha / Ðấng
đến gặp tất cả mọi người.
68. Hỏi: Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy luôn hướng nhìn về ai,
"là nguồn gốc và là tận điểm của đức tin" ?(PF Số 13)
Thưa: Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy luôn hướng nhìn về Chúa
Giêsu Kitô, "là nguồn gốc và là tận điểm của đức tin".
69. Hỏi: Năm Ðức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường
chứng tá điều gì? (Porta Fidei Số 14)
Thưa: Năm Ðức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng
tá Bác ái.
70. Hỏi: Ðức tin và đức mến có liên hệ gì với nhau? (Porta Fidei Số
14)
Thưa: Ðức tin không có đức mến thì không mang lại thành quả / và
đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Ðức
tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình.
71. Hỏi: Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra điều gì nơi những
người đang xin tình thương của chúng ta? (Porta Fidei Số 14)
Thưa: Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra Tôn nhan Chúa phục sinh
/ nơi những người đang xin tình thương của chúng ta.
72. Hỏi: Thánh Phaolô tông đồ yêu cầu môn đệ Timôthê hãy "tìm
kiếm đức tin" (Xc 1 Tm 2,22) và chúng ta cảm thấy lời mời gọi này được gửi
đến mỗi người chúng ta để làm gì? (Porta Fidei Số 15)
Thưa: Để không ai trong chúng ta trở nên lười biếng trong đức tin.
73. Hỏi: Ðức tin là bạn đồng hành trong cuộc sống, giúp chúng ta
làm gì? (Porta Fidei Số 15)
Thưa: - Một là giúp chúng ta nhận thức với một cái nhìn luôn mới mẻ
/ về những kỳ công mà Thiên Chúa thực hiện nơi chúng ta.
- Hai là giúp chúng ta đón nhận những dấu chỉ thời đại trong hiện tại của lịch sử.
- Hai là giúp chúng ta đón nhận những dấu chỉ thời đại trong hiện tại của lịch sử.
- Ba là thúc đẩy mỗi người chúng ta / trở thành dấu chỉ sinh
động / về sự hiện diện của Ðấng Phục Sinh trong thế giới.
74. Hỏi: Cuộc sống của các tín hữu Kitô cảm nghiệm điều gì? (Porta
Fidei Số 15)
Thưa: Cuộc sống của các tín hữu Kitô cảm nghiệm cả niềm vui lẫn đau
khổ.
75. Hỏi: Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI mời gọi chúng ta hãy phó thác
thời điểm hồng phúc này cho ai? (Porta Fidei Số 15)
Thưa: Cho Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, được tuyên xưng là "người
có phúc" vì Mẹ 'đã tin' (Lc 1,45).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét