Năm Đức tin
đã được mở ra trong Giáo Hội từ ngày 11 tháng 10 năm 2012 cho đến ngày 24 tháng
11 năm 2013.Mục đích là để mọi người trong Giáo Hội nhìn lại đời sống đức tin
của mình để trước hết cảm tạ Thiên Chúa đã ban quà tăng đức tin vô giá cho
chúng ta và từ đó thêm quyết tâm sống đức tin cách cụ thể và có chiều sâu hơn
nữa để thích nghi với những thách đố của thời đại tục hóa, trống vắng mọi niềm
tin này, và cũng để phúc âm hóa người khác, tức là mời gọi thêm nhiều người nữa
nhận biết và tin yêu Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại.
Đó là tất cả ý
nghĩa và mục đích của công cuộc “Tân phúc âm hóa để loan truyền đức tin
Kitô-Giáo=New Evangelization for the transmission of Christian faith) mà
Giáo Hội thi hành trong Năm Đức Tin này
Thực vậy, chúng ta
đang sống trong hoàn cảnh tục hóa của thời đại tôn thờ vật chất ( Materialism)
chuộng khoái lạc ( hedonism) vô thần ( atheism) và phi luân vô đạo ( amoralism).
Do đó, hơn bao giờ
hết, là người tin có Thiên Chúa là Đấng tạo dựng con người và muôn vật hữu hình
và vô hình, tin Chúa Kitô là Đấng cứu chuộc nhân loại, tin Chúa Thánh Thần là
Đấng ban sự sống và là Thần Chân Lý, hiệp nhất cùng một bản
thể với Chúa Cha, và Chúa Con trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi một Thiên Chúa duy
nhất. Tin Mẹ Maria là Mẹ thật của Chúa Kitô và cũng là Mẹ Thiên Chúa (
Theotokos) trọn đời đồng trinh và được về trời cả hồn xác. Tin Hội Thánh Công
Giáo là Thân Thể mầu nhiệm của Chúa Kitô trong sứ mệnh bảo vệ kho tàng đức tin
và rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô cho đến ngày mãn thời gian và tin
xác loài người ngày sau sẽ sống lại.
Đó là nội dung căn
bản của Đức Tin Công Giáo mà chúng ta hãnh diện tuyên xưng, sau khi được
lãnh nhận qua Phép Rửa để trở thành tạo vật mới và được phép gọi
Chúa là Cha. ( Abba).
Như thế “đức tin
là bảo đảm cho ta những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không
thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám.” ( Dt 11 : 1-2)
Trước hết, Đức tin
là điều kiện tiên quyết cho ta được cứu độ nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa
Kitô, Đấng đã đến trần gian làm Con Người để “
phục vụ và hiếm nạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” ( Mt 20; 28).
Do đó, phải có đức
tin để tin Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc để nhờ Người mà ta được cứu rỗi nếu ta
thực sự cộng tác với ơn cứu rỗi đó bằng quyết tâm sống theo đường lối của Chúa
trong suốt cuộc đời trên trần thế này.
Nhưng phải sống đức tin cách nào cho
xứng đáng là người thực sự có đức tin ?
Có đức tin là điều
tối cần thiết nhưng quan trọng hơn là phải sống đức tin ấy bằng hành động
cụ thể từ trong tâm hồn ra đến mọi hành động bên ngoài giữa bao người không có
đức tin để minh chứng mình khác với họ ở điểm then chốt là có động lực
nội tâm hướng dẫn mọi mọi tư tưởng, tình cảm và hành động của mình
về Thiên Chúa là đich điểm của mọi sự thiện hảo , sự lành và trong
sạch giữa thế gian ô uế vì tội lỗi, vì gian ác và đầy bất công, vô
nhân đạo. Động lực đó là niềm tin có Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, uy quyền
vô song, rất công bình và giầu tình thương.
Như vậy,
người có đức tin phải sống đức tin ấy sao cho phản ảnh trung thực
những đặc tính của Đấng mình tin yêu tôn thờ để nhờ sống niềm tin như
vậy, ta sẽ giới thiệu Chúa cho người khác chưa biết Chúa để họ được thấy Chúa
hiện diện trong ta và đem lòng tin yêu Người như Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ
xưa:
“Chính anh
em là ánh sáng cho trần gian….Cũng vậy , ánh sáng của anh em phải chiếu
giãi trước mặt người thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp anh em
làm, mà tôn vinh Cha của anh em Đấng ngự trên trời.” ( Mt 5, 14-16)
Nói rõ hơn, trong
khi những người không có niềm tin Chúa, nên làm những việc sai trái như
thề gian, nói dối, bất công bóc lột người khác, trộm cắp, nhất là giết
người, gian dâm, cờ bạc, thay vợ đổi chồng, tiếp tay với kẻ cầm quyền vô
đạo để đàn áp, triệt hạ những ai chống đối đòi quyền sống và công bình xã
hội.. thì người có đức tin phải nêu cao những giá trị của niềm tin là ngay
thẳng, lương thiện, công bình, bác ái, yêu thương, tha thứ và trong sạch để nên
nhân chứng đích thực cho Chúa trước mặt những người không có niềm tin và đang
làm những sự xấu, sự dữ nói trên, để mong thức tỉnh họ từ bỏ con
đường dẫn đến hư mất đời đời.
Như thế, sống đức
tin cách hoàn hảo và cụ thể không những góp phần phúc âm hóa người khác
mà còn nói lên chính mình là người thực sự tin có Thiên Chúa
là Cha toàn năng, Đấng tạo dựng muôn loài, mọi vật và đặc biệt tạo
dựng con người “ giống hình ảnh
Thiên Chúa” (St 1, 27) Đấng “ muốn
cho mọi người được cứu độ và nhận
biết chân lý.” (1 Tm 2, 4), vì “Thiên Chúa là tình yêu..” ( 2 Ga 4, 8).
Nói khác đị, đức
tin phải được chứng minh bằng hành động cụ thể để cho thấy sự trung
thực giữa lý thuyết và thực hành, giữa lời nói suông là có đức tin
khác biệt với hành động được đức tin thúc đẩy , soi dẫn và qui chiếu về
Thiên Chúa là nguồn mạch chân lý, và thiện hảo như Thánh Gia-cô-bê Tông Đồ đã
dạy như sau:
“Hỡi người đầu óc
rỗng tuếch: bạn có muốn biết rằng đức tin không có hành động là vô dụng
không? ông Ap-bra-ham tổ phụ chúng ta đã chẳng được nên công chính nhờ hành
động , khi ông hiến dâng con mình là I-Xa-ac trên bàn thờ đó sao? Bạn thấy đó,
đức tin hợp tác với hành động của ông, và nhờ hành động mà đức tin nên hoàn hảo.”
( Gc 2, 20-22)
Nghĩa là,
vì có đức tin mạnh mẽ và lòng mến Chúa thâm sâu, nên ông Abraham đã
dám hy sinh con một của ông là Issac theo lời đòi hỏi của Thiên Chúa nhằm thử
thách đức tin và lòng mến của ông. Nếu Chúa không sai Sứ thần đỡ lấy tay ông
đang cầm dao vung lên, thì chắc chắn con ông đã bị giết. Thiên Chúa đã can
thiệp để cứu mạng sống của Issac, vì đã nhìn thấy rõ đức tin phi thường
của ông Apbraham, nên Chúa đã phán bảo ông như sau qua Sứ thần của Người:
“Sứ Thần của ĐỨC
CHÚA từ trời gọi ông Abraham một lần nữa và nói:” Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy danh Ta mà thề : bởi vì ngươi
đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi
ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao
trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển…chỉnh bởi vì ngươi đã vâng lời
Ta.” ( St 22: 15- 18)
Sự kiện trên cho
thấy là ông Abraham đã thể hiện cách cụ thể lòng tin yêu Thiên Chúa qua việc
ông dám hy sinh con một của mình để tế lễ Chúa như Người đã truyền cho ông.
Hành động cụ thể của ông đã đủ minh chứng đức tin mạnh mẽ và hoàn hảo của ông
khiến ông trở nên người cha của những ai tin và yêu mến Thiên Chúa
cách cụ thể và đầy thuyết phục như Thánh Gia-cô-bê nói trên đây.
Cũng phải kể
thêm gương đức tin sáng chói nữa là của các Thánh Tử Đạo- đặc biệt là các
anh hùng Tử Đạo Viêt-Nam, cha ông chúng ta đã can đảm và anh
dũng chịu mọi cực hình để tuyên xưng niềm tin sắt son của mình trước bạo
quyền bách hại.Chính nhờ máu các ngài đổ ra mà hạt giống đức tin đã nẩy sinh ra
nhiều tin hữu cho Giáo Hội Việt-Nam.
Ngay nay, chúng ta
không có cơ hội đổ máu mình ra để tuyên xưng đức tin như các anh hùng Tử
Đạo xưa kia.Nhưng chúng ta vẫn có nhiều cơ hội khác để minh chứng đức tin của
mình trước bao người không có đức tin và đang làm những sự dữ như giết
người, giết thai nhi, bóp nghẹt lương tâm để lường gạt người khác,
hoặc làm những việc có chủ đích mời gọi người khác phạm tội như mở sòng bạc ,
nhà mãi dâm, buôn bán ma túy, hoặc phụ nữ cho kỹ nghệ dâm ô dưới
chiêu bài “hôn nhân nước ngoài” khiến biết bao phụ nữ, vì nghèo đói, phải
cam chịu đem bán mình làm thú vui cho kẻ vô luân vô đạo ở trong và ngoài
nước.
Trước thực trạng
ghê tởm này, người tín hữn Chúa Kitô- đều được mong đợi sống niềm tin của
mình cách cụ thể là không những phải xa tránh những lối sống
vô luân vô đạo nói trên mà còn phải can đảm lên án những tụt hậu
thê thảm về luân lý, đạo dức của xã hội mình đang sống, theo gương Chúa
Kitô, Người đã lên án tội lỗi của thế hệ đương thời như sau :
“Thế hệ gian ác và
ngoại tình này đòi dấu lạ.Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu
lạ ông Giôna..” ( Mt 16: 4)
Dấu lạ ông Giôna
là dấu dân thành Ni-ni-vê, nghe lời cảnh cáo của ngôn sứ Giôna để ăn
chay, xám hối, xin Chúa tha thứ không đánh phạt và Chúa đã nhậm lời xin tha
không trừng phạt họ như Người đã ngăm đe. ( Gn 3: 1-10)
Như vậy , gương
đức tin của ông Abraham và của các Thánh Tử Đạo phải là những khuôn vàng thước
ngọc cho chúng ta ngày nay noi theo để minh chứng cụ thể
trước thế gian chúng ta thật sự tin yêu Chúa, Đấng chúng ta không được
xem thấy, nhưng vững lòng tin có Người là Cha toàn năng. Người yêu thương mọi
con cái loài người đến mức đã hy sinh chính Con Một của mình là Chúa
Kitô, Đấng cũng vui lòng hiến mạng sống mình cho chúng ta được tha thứ tội lỗi
và có hy vọng được cứu độ để sống hạnh phúc muôn đời với Chúa tình thương trên
Nước trời mai sau.
Phải nói là có hy
vọng thôi chứ không phải là bảo đảm chắc chắn ngay từ bây giờ vì tất cả
còn tùy thuộc một phần nơi thiện chí của mỗi người chúng ta trong cuộc
sống đức tin trên trần thế này.
Thức vậy, chúng
ta phải sống đức tin có Chúa ở mọi chiều kích như đức tin đòi hỏi. Đó là
-trước hết- phải thực tâm yêu mến Chúa trên hết mọi sự,và cương quyết từ
bỏ ma quỷ là kẻ gây ra mọi tội lỗi để mong đẩy xa con người ra khỏi tình
thương của Chúa. Đó là hành động cụ thể để chứng minh hùng hồn đức tin
hoàn hảo vì “ đức tin không
có hành động thì quả là đức tin chết.” như Thánh Gia-cô-bê Tông Đổ đã dạy.(cf.
Gc 2, 17)
Kinh nghiệm phổ
biến trong cuộc sống ở khắp mọi nơi cũng cho ta thấy là người nào chỉ nói , nói
nhiều , nói hay, mà không thực hành điều mình nói thì chắc chắn sẽ không
thuyết phục được ai tin những gì mình nói. Thí dụ hô hào, kêu gọi
người khác làm việc bác ái, giúp đỡ thiết thực cho người đang nghèo đói, nhưng
bản thân mình lại không hề bỏ ra một đồng nào để giúp các nạn nhân trong
khi mình có dư khả năng làm việc đó , thí làm sao lời hêu gọi của mình được ai
hưởng ứng nữa ?
Lại nữa, khuyên
người khác sống hòa thuận vợ chồng mà mình lại ly dị vợ hay chồng để lấy người
khác trẻ, đẹp hơn thì lời khuyên của mình còn thuyết phục được ai nữa ?
Cũng vậy, mang
danh người tín hữu Chúa Kitô mà tham gia vào những việc làm ăn bất lương, bất
công, bóc lột người khác, dửng dưng trước sự khò nghèo của người khác, có dư
thì giờ đi hu hí, nhẩy nhót mất nết, vui chơi thâu đêm suốt sáng, nhưng lại
không có giờ đi dự lễ ngày Chúa Nhật cách trọn vẹn, cũng như không hề cầu
nguyện và năng xưng tội , rước Mình Thánh Chúa, thì đức tin kia còn sống
hay đã chết ?
Lại nữa, miệng nói
tôi tin Chúa Kitô, mà chân lại bước vào những con đường dẫn đến các sòng
bạc lớn nhỏ, đến những nơi mua bán dâm ô, hoặc những nơi giải tri tội
lỗi để thỏa mãn thú vui xác thịt, và nhất là thú ấu-dâm (
child prostitution) rất khốn nạn thì mang danh Công giáo
và tuyên xưng đức tin ngoài môi miệng có ích lợi gì cho ai ?
Khi lời nói
không đi đôi với việc làm thì sẽ trở thành người đạo đức giả, giống bọn biệt
phái và luật sĩ mà Chúa Giêsu đã nặng lời chỉ trích xưa kia.
Những ai sống kiểu
này cần nghe lại lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa như sau:
“Không phải bất cứ
ai thưa với Thầy, Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu, Nhưng chỉ ai ai thi hành ý muốn của
Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” ( Mt 7, 21)
Thi hành ý muốn
của Cha trên Trời có nghĩa là phải sống đức tin thực sự từ trong tâm hồn ra đến
hành động bên ngoài sao cho phản ảnh trung thực những giá trị của Tin Mừng Cứu
Độ mà Chúa Kitô đã rao giảng và không hổ thẹn phải xưng danh Chúa và sống
những đòi hỏi của Phúc Âm sự sống trước mặt người đời, trước mặt những
kẻ đang sống theo “văn hóa của sự
chết” để làm những điều gian ác vô luân vô đạo ở khắp nơi.
Người tín hữu nào
không có can đảm sống đức tin như vậy thì hãy nghe lời Chúa cảnh giác sau đây
:
“Giữa thế hệ ngoại
tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì Ta và những lời Ta dạy, thì Con Người cũng
sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh Thiên thần, trong vinh quang của Cha
Người. “ ( Mc 8, 38).
Tóm lại, Năm Đức
Tin mời gọi mọi tín hữu không những dâng lời cảm tạ Chúa về quà tặng đức tin
quý giá đã nhận được, mà cần thiết phải nhìn lại cách sống đức tin của mình
trong bao năm qua, để từ đó – với ơn Chúa Thánh Linh soi sáng - biết
chuyển hướng đời sống đức tin của mình cho thêm cụ thể và sống động
để sống xứng đáng là nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt người khác trong hoàn
tục hóa, phản Kitô-giáo của thế giới ngày nay.
Lm. Phanxicô
Xaviê Ngô Tôn Huấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét